Sáng hôm sau, Peter thức dậy trước bình minh. Peter thay quần jean, áo thun dây xám tay dài, đi giày thể thao, rồi rón rén xuống nhà tìm chút gì ăn sáng.
Trên bàn nhà bếp có cặp kính râm trong hộp. Có lẽ của cha bỏ đó Peter suy nghĩ xem có nên đeo kính râm vào hay không. Peter cân nhắc vấn đề này trong khi ăn vài cái bánh và uống ly sữa.
Nếu đeo kính râm, người ta sẽ dễ để ý Peter hay không? Nếu Kyoto lỡ nhìn thấy Peter, thì ông người Nhật có nhớ và nhận ra Peter không?
Peter quyết định lấy theo cặp kính râm. Như vậy Peter sẽ có sẵn để đeo vào nếu về sau thích thay đổi hình dạng. Peter nhét cặp kính vào túi bên trong rồi ra nhà xe lấy chiếc xe đạp đặc biệt.
Đó là chiếc xe đạp đua Anh có mười số, của ba tặng cho Peter nhân ngày sinh nhật. Peter giữ gìn xe đạp rất kỹ, khi đi lại hằng ngày thì dùng xe đạp cũ. Peter chạy được trung bình ba mươi dặm bằng chiếc xe đạp đua, vận tốc cao nhất là trên bốn mươi.
Trong khi lấy xe ra và ngồi lên yên, Peter trìu mến vỗ vỗ chiếc xe đạp, y như vỗ một con ngựa.
Mười phút sau, Peter đến khu Tiểu Tokyo, Peter đậu xe đạp bên lề, giữa cây cao, để có thể theo dõi nhà ông Kyoto mà không bị phát hiện.
Rất tốt Peter đến vừa kịp. Chiếc xe tải nhẹ xanh vẫn đậu trên lối đi. Đèn cổng vẫn còn sáng.
Mặt trời vừa mới mọc lên, Peter nhìn thấy một chiếc xe con màu xanh dương chạy ngang qua, dừng bên ngoài trước ngôi nhà. Một người bước xuống xe, đi đến chiếc xe tải nhẹ. Peter căng mắt ra để cố nhìn và ghi nhận cho rõ mọi chi tiết về ngoại hình người đàn ông này. Áo khoác đuôi tôm, quần kẻ sọc, râu ria đen râm Parker Frisbee!
Peter chắc chắn là ông. Cho dù ánh sáng còn mờ, nhưng không thể nào lầm được.
Frisbee không đeo kính đen và đang xách một cái gói vuông to, trông xám xám như được gói giấy báo. Frisbee mở cửa sau xe tải nhẹ, bỏ gói đồ lên xe.
Đèn cổng nhà ông Kyoto tắt đi.
Frisbee đóng cửa xe tải nhẹ đi trở về xe con xanh. Peter tựa lưng vào cây để chờ. Mười phút sau, một người đàn ông Nhật bước ra khỏi nhà, đi đến chiếc xe tải nhẹ. Peter phân vân. Đây là Kyoto hay người phiên dịch?
Rồi Peter nhớ lại những gì Hannibal đã nói về đây thắt lưng có đồ nghề và quần jean dính vết dầu của người phiên dịch. Người đàn ông bước trên lối đi không có những thứ đó. Đó chính là Kyoto. Ông mặc quần jean bạc màu và xách hộp cơm trưa bằng sắt.
Peter kéo xe đạp ra khỏi cây ngồi sẵn trên yên.
Kyoto không mở cửa sau xe và cũng không nhìn qua kính sau. Ông mang hộp cơm trưa leo lên xe, lái ra khỏi lối đi. Peter đưa xe đạp xuống đường.
Đến hết lối đi, chiếc xe tải nhẹ rẽ phải, dừng lại một hồi rồi chạy thẳng về hướng Peter. Peter vội vàng kéo xe đạp ra sau gốc cây.
Phía bên kia đường, chiếc xe tải nhẹ chạy ngang qua chỗ Peter đứng. Peter đếm đến mười, rồi chạy theo.
Peter dễ dàng nhìn thấy chiếc xe tải nhẹ đang chạy xuống dốc đồi vào thành phố. Khi ra đến Main Street, Peter giữ một khoảng cách an toàn khoảng một khu nhà giữ xe tải nhẹ và mình cho đến khi xe rẽ ra đường chạy ven biển. quang cao
Ra đến đó, xe tải nhẹ tăng tốc. Peter thích thú cho xe đạp đua lên đến ba mươi, ba mươi lăm, bốn mươi dặm một giờ, đạp ở số lớn nhất cách sau xe tải nhẹ khoảng một trăm mét. Trời đã sáng hẳn khi Peter chạy ngang qua quán Hải Mã, rồi xuống đồi.
Vài phút sau Peter đi ngang qua bãi biển Wills. Bãi biển này cho phép cắm trại với điều kiện không được đốt lửa trại. Có vài cái lều trên bãi cát. Một cô gái bước ra khỏi lều, vẫy tay chào khi thấy Peter chạy ngang qua.
Sau bãi biển Wills hai dặm đường rẽ về đi xa biển. Peter liếc nhìn những ngọn sóng lớn ở đằng xa. Peter đang nghĩ bụng ngày hôm nay mà đi bơi thì rất đẹp, thì đột nhiên buộc phải thắng gấp và trượt xe để đứng.
Đèn sau của xe tải nhẹ vừa mới chớp lên.
Peter vẫn ngồi trên xe đạp, cầm ghi-đông, trong khi xe tải nhẹ dừng hẳn.
Peter nhớ Kyoto trông rất khỏe manh. Cậu chợt nhớ ra chính người Nhật đã phát minh ra môn võ karate. Peter quay đầu xe lại, sẵn sàng bỏ cuộc và đạp đi trước khi quá trễ.
Xe tải xanh lục từ từ chạy tiếp, rồi rẽ ra khỏi xa lộ sang bên trái.
Peter đã không thấy có một con đường nhỏ dẫn ra bến. Cách đó khoảng ba chục mét, con đường nhỏ kết thúc bằng một bãi đậu xe. Phía sau bãi đậu xe là một hàng rào là một cụm những ngôi nhà chòi gỗ.
Chiếc xe tải nhẹ xanh lục đã vào bãi đậu xe. Đứng né một bên đường xa lộ để núp phía sau bụi cây gai, Peter nhìn theo Kyoto đang xuống cùng hộp đồ ăn trưa, bước ra sau xe.
Peter thấy ông người Nhật mở cửa sau xe ra, lên vào trong xe, đóng cửa lại.
Kyoto ở trong đó một thời gian mà Peter cảm thấy rất dài, nhưng thật ra chỉ có vài phút. Peter thắc mắc không biết Kyoto đang gì trong đó. Thay đồ à?
Không. Khi bước ra, Kyoto vẫn mặc quần jean bạc màu. Kyoo cầm hộp ăn trưa trước mặt bằng hai tay đi đến cổng hàng rào.
Một người đàn ông mặc đồng phục bước ra khỏi một nhà chòi gỗ. Ông này đeo súng bên hông, nhưng không phải là một cảnh sát bình thường. Có lẽ là bảo vệ, Peter đoán. Người bảo vệ mở cổng ra, Kyoto bước vào bên trong. Người bảo vệ đóng và khóa cổng lại.
Peter chui vào sâu hơn trong bụi gai khi một xe tải nhẹ có cần cẩu chạy đến trên xa lộ và rẽ xuống con đường nhỏ. Có hai người Nhật ngồi sau xe. Thêm hai người khác nữa bước xuống từ buồng lái khi xe tải nhẹ dừng ở bãi đậu xe. Tất cả đếu cầm hộp ăn trưa. Bốn người đàn ông Nhật bước đến cổng và cùng được người bảo vệ có vũ trang cho vào.
Chỗ này là chỗ gì đây? Peter tự hỏi. Ngoại trừ nhà chòi gỗ, thì không thấy gì khác. Phía sau hàng rào và cụm nhà chòi gõ có một khoảng đất bằng phảng trải dài suốt đến biển và bãi cát. Dường như không có gì mọc trên khoảng đất này.
Nhưng rồi Peter phát hiện rằng đó không phải là đất. Mà là nước. Một khu biển nhân tạo rộng lớn nằm sâu trong đất liền, chia cách với bãi biển bằng một cái đập đá. Có những bờ gỗ cao chéo qua chéo lại mặt nước như bàn cờ. Những lối đi lát thanh gỗ mỏng cao cách mặt nước khoảng hơn chục phân.
Peter thấy mấy người Nhật chạy tán loạn trên những gờ gỗ nhỏ cao trên mặt nước cúi xuống, kéo lên những cái gì đó trông như lồng sắt. Peter không thể nhìn thấy trong lồng có gì, nhưng người Nhật lom khom như đang lục lọi những gì chứa trong đó.
Peter không còn biết được ai trong số đó là Kyoto nữa, nhưng Peter đếm được năm hình bóng đang lúi húi nên hẳn Kyoto là một trong số người đó.
Peter đứng núp trong bụi cây thêm nửa tiếng nữa. Không có gì xảy ra. Không có gì thay đổi. Thỉnh thoảng bảo vệ đi tuần tra dọc theo hàng rào. Có ít nhất ba người bảo vệ.
Bây giờ thì Peter nhìn thấy rất rõ. Công nhân kiên nhận lom khom trên mấy cái lồng sắt. Thỉnh thoảng, họ thả một cái lồng trở xuống nước, kéo một cái khác lên.
Mòng biển và bồ câu lượn qua lại trên đó. Nhưng điều đó không có gì là bất bình thường cả. Trên bãi biển nào cũng có mòng biển và bồ câu.
Đã đến lúc về báo cáo, cuối cùng Peter quyết định. Peter nhớ có thấy một trạm xăng trên xa lộ cách đó khoảng một dặm. Cậu kéo xe đạp ra khỏi bụi cây, đạp đến trạm xăng với vận tốc cao nhất.
Tại bộ tham mưu, Hannibal trả lời điện thoại ngay Peter trình bày nơi mình đang ở, cách bãi biển Wills khoảng một dãi. Peter nói sẽ chờ Hannibal và Bob lại trạm xăng.
Khi ra khỏi buồng điện thoại, Peter ước tính Hannibal và Bob sẽ mất khoảng một tiếng để đến. Peter mua một lon nước ngọt và một thanh sôcôla, rồi tìm chỗ bóng mát để chờ.
- Xe ngon quá.
Anh nhân viên trạm xăng đi ngang qua khen chiếc xe đạp đua Anh của Peter. Peter cảm ơn. Anh chàng nhân viên, chỉ hơn Peter khoảng hai ba tuổi, cũng rất thích xe đạp. Anh chàng thân thiện nói chuyện với Peter về các kiểu, các đời xe đạp. Mãi một hồi Peter mới nghĩ ra rằng có thể anh chàng này sẽ cung cấp thông tin có ích cho mình.
- Cái chỗ trên kia, - Peter nói - có hàng rào kín và bảo vệ là chỗ gì vậy?
- Theo những gì mình nghe được, - Anh nhân viên trả lời - thì đó là một trại nuôi trai. Một tay Nhật giàu sụ nào đó đã mua chỗ đó cách đây vài năm. Ông ta cho đào đất, rồi cho nước biển tràn vào. Nghe nói họ nuôi trai trong đó.
Xe cộ đến nhiều hơn và anh nhân viên bận đổ xăng cho đến khi Hannibal và Bob đến.
Thám tử trưởng chảy mồ hôi và thở hổn hển sau chuyến đạp xe dài, nhưng không chịu uống nước ngọt.
- Nhiều calôri quá. - Hannibal giải thích rồi ra vòi nước để giải khát.
Sau đó Peter lôi hai bạn ra một góc, kể lại tất cả những gì đã xảy ra, tất cả những gì đã biết được từ sáng đến giờ.
- Trại nuôi trai. - Hannibal đăm chiêu lặp lại khi Peter nói xong - Bảo vệ. Parker Frisbee. Một gói xám to vuông. Cậu giỏi lắm, Perer à.
- Ừ, nhưng như vậy nghĩa là sao hả Babal? - Peter hỏi.
Thám tử trưởng không trả lời.
- Ta hãy cố gắng tìm một chỗ núp cho kín để theo dõi những gì sắp xảy ra tiếp theo. - Hannibal lại đề nghị thay câu trả lời.
Ba Thám Tử Trẻ chạy hàng một đến ngã ba, giấu xe đạp vào bụi cây, nằm xuống để quan sát con đường hẹp và cổng ở cuối đường.
Hannibal có mang theo ống nhòm. Hannibal chỉnh tiêu cự ống nhòm vào nhóm công nhân đang lom khom xuống những cái lồng sắt.
- Đúng là con trai trong mấy cái lồng kia - Thám tử trưởng nói - Thật khó biết họ đang làm gì, vì phải nhìn qua hàng rào, nhưng dường như họ mở vài con ra.
Bây giờ mặt trời đã lên cao sáng chói. Pete ước mình có mang theo một lon nước ngọt khác từ trạm xăng Peter đeo mắt kính đen vào, nằm ngửa ra, nhắm mắt lại.
Đến mười hai giờ trưa, một người bảo vệ thổi tu huýt. Công nhân Nhật ngưng tay để ăn trưa. Họ nghỉ tại chỗ trên những gờ gồ, ngồi giữa nắng, ăn trong hộp đồ ăn.
Mòng biển và bồ câu quay quẩn bay lượn quanh họ, hy vọng có được miếng đồ ăn thừa. Nhóm người Nhật đuổi chúng đi. Cuối cùng bầy chim bỏ cuộc, cất cánh lên cao, bay đi mất.
Hannibal hạ ống nhòm xuống. Khi thấy công nhân Nhật ăn trưa, thám tử trưởng mới nhận ra mình đói bụng đến mức nào. Hannibal cố tống khứ ý nghĩ về thức ăn ra khỏi đầu bằng cách tập trung suy nghĩ về vụ bí ẩn con bồ câu hai ngón và những con chim bị giết chết. Hannibal vô tình bắt đầu véo véo cái môi dưới.
Cái gói xám mà Peter đã nhìn thấy Parker Frisbee bỏ vào sau xe tải nhẹ màu xanh lục có gì? Theo Peter, thì Kyoto đã bỏ lại trên xe khi bước qua cổng cùng với hộp đồ ăn trưa.
Hannibal lay Peter dậy.
- Kyoto có khóa cửa sau xe không? - Thám tử trưởng hỏi trong khi Peter ngẩng đầu dậy.
Hannibal không thể nhìn thấy mắt Peter đang mở hay nhắm vì Peter đeo kính đen, nhưng dường như Peter ít nhiều tỉnh táo.
- Không - Perer trả lời với giọng buồn ngủ - Không, mình chắc chắn là không có khóa.
Peter hạ đầu xuống ngủ tiếp.
Hannibal xem xét các khả năng. Hannibal có thể kín đáo sau xe tải nhẹ xanh lục, mở cửa ra, leo vào bên trong, rồi đem cái gói xám đó ra không? Thám tử trưởng đành phải thừa nhận rằng câu trả lời là không được. Đội bảo vệ có vũ trang không hề nghỉ trưa, mà vẫn đang trực trước cổng và tuần tra dọc theo hàng rào.
Vài phút sau, tu huýt lại vang lên. Đám công nhân đóng hộp ăn trưa lại, tiếp tục làm việc, phân loại mấy con trai trong những lồng sắt.
Hannibal cố gắng căng mắt ra nhìn. Nhưng không có gì để quan sát, không có gì mới mẻ. Trời nóng nực, không khí yên tĩnh với cái đói đang dần chiến thắng Hannibal. Hannibal cảm thấy mí mắt nhắm lại. Đầu gục xuống.
Hannibal mơ thấy mình đang ăn một cái bánh hồ đào, với rất nhiều kem. Hannibal vừa mới xắn cái nỉa xuống lấy miếng bánh thứ nhì...
Tiếng tu huýt ré lên đánh thức Hannibal tỉnh dậy. Hannibal nhìn đồng hồ thấy đã ba giờ chiều. Nhóm công nhân Nhật đang thả lồng sắt trở xuống nước, rồi đứng dậy từ từ bước ra cổng.
Sau giấc ngủ trưa này, đầu óc Hannibal đột nhiên minh mẫn hẳn lên. Mắt kính đen, Hannibal nghĩ bụng, và suy nghĩ này như một phát minh. Parker Frisbee đã đeo kính đen khi ở khu rừng nhà Maureen Melody và cũng đeo khi ở bãi đậu xe Ngân hàng Trustee. Cả hai lần đều là đeo kính khi trời đêm. Nhưng kính đen không chỉ che mắt khỏi ánh nắng, mà còn khỏi những người khác nữa. Hannibal đã không biết được mắt Peter đang nhắm hay mở.
Hannibal nhìn qua hàng rào kèm gai. Đám công nhân Nhật không bước ra cổng mà đang đi vào một nhà chòi gỗ. Rồi Hannibal thấy rằng tất cả bảo vệ cũng vào đó theo.
Hannibal nhanh nhẹn đứng dậy, chạy thật nhanh qua xa lộ, xuống con đường nhỏ dẫn đến bãi đậu xe.
Bob mở mắt ra, không thấy ai bên cạnh mình. Hannibal đâu? Hannibal đi đâu mất rồi? Rồi Bob nhìn qua xa lộ thấy thám tử trưởng đang mở cửa sau xe tải nhẹ leo vào bên trong. Cửa xe đóng lại.
- Chết rồi! - Peter ngẩng đầu lên nói.
- Bọn mình phải làm gì bây giờ? - Bob hỏi Peter - Ý mình muốn nói không biết Babal muốn bọn mình làm gì? Cậu có nghĩ Hannibal sẽ trốn trong xe tải nhẹ của Kyoto và theo xe trở về cùng Kyoto không?
- Không biết nữa - Peter cũng có vẻ không hiểu ý như Bob - Nhưng nếu Babal muốn bọn mình làm một cái gì đó, thì Babal đã nói rồi, đúng không?
- Phải. Có thể Babal chỉ đang lục soát trong xe tải nhẹ thôi. Có lẽ bạn mình nên chờ Babal ở đây. Hy vong Babal sẽ kịp trở về trước khi Kyoto...
Bob định nói “Trước khi bị Kyoto bắt...”. Nhưng không có dấu hiệu gì về Kyoto và bất cứ ai khác. Không thấy công nhân Nhật đâu hết. Không thấy bảo vệ đâu hết.
Bob lấy ống nhòm nhìn qua những lối đi bằng gỗ nhỏ lên trên mặt nước, qua hàng rào kẽm gai. Bob dừng lại ở cửa sổ một nhà chòi gỗ.
Rất khó nhìn rõ hơn, nhưng Bob vẫn thấy được rằng nhà chòi đầy ắp người Nhật và bảo vệ. Người Nhật đã cởi hết quần áo ra. Dường như bảo vệ đang lục soát quần áo họ, tìm kiếm trong hộp ăn trưa.
Bob hạ ống nhòm xuống. Hannibal đang chạy trở về. Thám tử trưởng nhào vào bụi cây, nằm xuống cạnh Bob. Thám tử trưởng thở hổn hển, mặt đỏ gay, nhưng mắt kích động.
- Bảo vệ đang lục soát họ, đúng không? - Hannibal hỏi ngay khi thở lại bình thường được.
Bob gật đầu.
- Dường như thế. Họ tìm gì vậy Babal?
Thám tử trưởng không trả lời ngay.
- Mình cũng đã tìm kiếm, - Hannibal nói sau một hồi - mình đã biết được cái gói xám trong xe tải nhẹ của Kyoto chứa gì. Không phải cái hộp đó gói giấy báo đâu, Perer à. Có lẽ chỉ trông giống như giấy báo, hơi xám xám, dưới ánh sáng bình minh mờ mờ. Thật ra cái hộp gói bằng vải thưa.
- Vải thưa - Perer lặp lại - Giống như cái hộp của Blinky hả?
- Y như thế - Hannibal đáp - Lớp vải đã lột ra. Nhưng cái lồng vẫn còn nằm sau xe tải nhẹ. Lồng trống không. Nhưng mình dám chắc lồng không trống trơn lúc Frisbee bỏ lên xe sáng nay. Bởi vì mình đã tìm thấy cái này.
Hannibal đưa tay lên cho Bob và Peter xem cái đã tìm thấy. Một hạt bắp.
- Bồ câu, - Peter nói - Kyoto chở một con bồ câu nhốt trong lồng...
- Và Kyoto đã đưa lậu con chim qua cổng trong cái hộp đồ ăn trưa - Hannibal nói tiếp - Việc này khá dễ. Bảo vệ không lục soát công nhân Nhật khi đi vào. Mà chỉ soát khi ra thôi.
Bob chau mày, ra vẻ không hiểu.
- Vậy bảo vệ tìm cái gì? - Bob hỏi.
- Ngọc trai - Hannibal kiên nhẫn giải thích - Chính vì vậy mà có mấy con trai. Đây là một trai nuôi trai lấy ngọc.
- Ngọc trai cấy - Hannibal lặp lại - Ngọc trai và bồ câu đưa thư.
Ba Thám Tử Trẻ đang gặp lại nhau tại bộ tham mưu sau khi rời trại nuôi trai lấy ngọc. Cả ba đang ăn những khúc bánh mì kẹp thịt mà thím Mathilda đã chuẩn bị cho. Hannibal đã cắt khúc bánh mì thịt của mình ra làm đôi và quyết định chỉ ăn một nửa thôi.
Bob đến cuối cùng. Cậu ghé qua thư viện lấy hai quyển sách mà Hannibal yêu cầu.
- Sách nói gì về ngọc trai cấy? - Hannibal hỏi.
Bob mở một quyển sách ra tựa đề là “Đá quý”. Bob lấy ra một tờ giấy có ghi chép.
Trên bàn nhà bếp có cặp kính râm trong hộp. Có lẽ của cha bỏ đó Peter suy nghĩ xem có nên đeo kính râm vào hay không. Peter cân nhắc vấn đề này trong khi ăn vài cái bánh và uống ly sữa.
Nếu đeo kính râm, người ta sẽ dễ để ý Peter hay không? Nếu Kyoto lỡ nhìn thấy Peter, thì ông người Nhật có nhớ và nhận ra Peter không?
Peter quyết định lấy theo cặp kính râm. Như vậy Peter sẽ có sẵn để đeo vào nếu về sau thích thay đổi hình dạng. Peter nhét cặp kính vào túi bên trong rồi ra nhà xe lấy chiếc xe đạp đặc biệt.
Đó là chiếc xe đạp đua Anh có mười số, của ba tặng cho Peter nhân ngày sinh nhật. Peter giữ gìn xe đạp rất kỹ, khi đi lại hằng ngày thì dùng xe đạp cũ. Peter chạy được trung bình ba mươi dặm bằng chiếc xe đạp đua, vận tốc cao nhất là trên bốn mươi.
Trong khi lấy xe ra và ngồi lên yên, Peter trìu mến vỗ vỗ chiếc xe đạp, y như vỗ một con ngựa.
Mười phút sau, Peter đến khu Tiểu Tokyo, Peter đậu xe đạp bên lề, giữa cây cao, để có thể theo dõi nhà ông Kyoto mà không bị phát hiện.
Rất tốt Peter đến vừa kịp. Chiếc xe tải nhẹ xanh vẫn đậu trên lối đi. Đèn cổng vẫn còn sáng.
Mặt trời vừa mới mọc lên, Peter nhìn thấy một chiếc xe con màu xanh dương chạy ngang qua, dừng bên ngoài trước ngôi nhà. Một người bước xuống xe, đi đến chiếc xe tải nhẹ. Peter căng mắt ra để cố nhìn và ghi nhận cho rõ mọi chi tiết về ngoại hình người đàn ông này. Áo khoác đuôi tôm, quần kẻ sọc, râu ria đen râm Parker Frisbee!
Peter chắc chắn là ông. Cho dù ánh sáng còn mờ, nhưng không thể nào lầm được.
Frisbee không đeo kính đen và đang xách một cái gói vuông to, trông xám xám như được gói giấy báo. Frisbee mở cửa sau xe tải nhẹ, bỏ gói đồ lên xe.
Đèn cổng nhà ông Kyoto tắt đi.
Frisbee đóng cửa xe tải nhẹ đi trở về xe con xanh. Peter tựa lưng vào cây để chờ. Mười phút sau, một người đàn ông Nhật bước ra khỏi nhà, đi đến chiếc xe tải nhẹ. Peter phân vân. Đây là Kyoto hay người phiên dịch?
Rồi Peter nhớ lại những gì Hannibal đã nói về đây thắt lưng có đồ nghề và quần jean dính vết dầu của người phiên dịch. Người đàn ông bước trên lối đi không có những thứ đó. Đó chính là Kyoto. Ông mặc quần jean bạc màu và xách hộp cơm trưa bằng sắt.
Peter kéo xe đạp ra khỏi cây ngồi sẵn trên yên.
Kyoto không mở cửa sau xe và cũng không nhìn qua kính sau. Ông mang hộp cơm trưa leo lên xe, lái ra khỏi lối đi. Peter đưa xe đạp xuống đường.
Đến hết lối đi, chiếc xe tải nhẹ rẽ phải, dừng lại một hồi rồi chạy thẳng về hướng Peter. Peter vội vàng kéo xe đạp ra sau gốc cây.
Phía bên kia đường, chiếc xe tải nhẹ chạy ngang qua chỗ Peter đứng. Peter đếm đến mười, rồi chạy theo.
Peter dễ dàng nhìn thấy chiếc xe tải nhẹ đang chạy xuống dốc đồi vào thành phố. Khi ra đến Main Street, Peter giữ một khoảng cách an toàn khoảng một khu nhà giữ xe tải nhẹ và mình cho đến khi xe rẽ ra đường chạy ven biển. quang cao
Ra đến đó, xe tải nhẹ tăng tốc. Peter thích thú cho xe đạp đua lên đến ba mươi, ba mươi lăm, bốn mươi dặm một giờ, đạp ở số lớn nhất cách sau xe tải nhẹ khoảng một trăm mét. Trời đã sáng hẳn khi Peter chạy ngang qua quán Hải Mã, rồi xuống đồi.
Vài phút sau Peter đi ngang qua bãi biển Wills. Bãi biển này cho phép cắm trại với điều kiện không được đốt lửa trại. Có vài cái lều trên bãi cát. Một cô gái bước ra khỏi lều, vẫy tay chào khi thấy Peter chạy ngang qua.
Sau bãi biển Wills hai dặm đường rẽ về đi xa biển. Peter liếc nhìn những ngọn sóng lớn ở đằng xa. Peter đang nghĩ bụng ngày hôm nay mà đi bơi thì rất đẹp, thì đột nhiên buộc phải thắng gấp và trượt xe để đứng.
Đèn sau của xe tải nhẹ vừa mới chớp lên.
Peter vẫn ngồi trên xe đạp, cầm ghi-đông, trong khi xe tải nhẹ dừng hẳn.
Peter nhớ Kyoto trông rất khỏe manh. Cậu chợt nhớ ra chính người Nhật đã phát minh ra môn võ karate. Peter quay đầu xe lại, sẵn sàng bỏ cuộc và đạp đi trước khi quá trễ.
Xe tải xanh lục từ từ chạy tiếp, rồi rẽ ra khỏi xa lộ sang bên trái.
Peter đã không thấy có một con đường nhỏ dẫn ra bến. Cách đó khoảng ba chục mét, con đường nhỏ kết thúc bằng một bãi đậu xe. Phía sau bãi đậu xe là một hàng rào là một cụm những ngôi nhà chòi gỗ.
Chiếc xe tải nhẹ xanh lục đã vào bãi đậu xe. Đứng né một bên đường xa lộ để núp phía sau bụi cây gai, Peter nhìn theo Kyoto đang xuống cùng hộp đồ ăn trưa, bước ra sau xe.
Peter thấy ông người Nhật mở cửa sau xe ra, lên vào trong xe, đóng cửa lại.
Kyoto ở trong đó một thời gian mà Peter cảm thấy rất dài, nhưng thật ra chỉ có vài phút. Peter thắc mắc không biết Kyoto đang gì trong đó. Thay đồ à?
Không. Khi bước ra, Kyoto vẫn mặc quần jean bạc màu. Kyoo cầm hộp ăn trưa trước mặt bằng hai tay đi đến cổng hàng rào.
Một người đàn ông mặc đồng phục bước ra khỏi một nhà chòi gỗ. Ông này đeo súng bên hông, nhưng không phải là một cảnh sát bình thường. Có lẽ là bảo vệ, Peter đoán. Người bảo vệ mở cổng ra, Kyoto bước vào bên trong. Người bảo vệ đóng và khóa cổng lại.
Peter chui vào sâu hơn trong bụi gai khi một xe tải nhẹ có cần cẩu chạy đến trên xa lộ và rẽ xuống con đường nhỏ. Có hai người Nhật ngồi sau xe. Thêm hai người khác nữa bước xuống từ buồng lái khi xe tải nhẹ dừng ở bãi đậu xe. Tất cả đếu cầm hộp ăn trưa. Bốn người đàn ông Nhật bước đến cổng và cùng được người bảo vệ có vũ trang cho vào.
Chỗ này là chỗ gì đây? Peter tự hỏi. Ngoại trừ nhà chòi gỗ, thì không thấy gì khác. Phía sau hàng rào và cụm nhà chòi gõ có một khoảng đất bằng phảng trải dài suốt đến biển và bãi cát. Dường như không có gì mọc trên khoảng đất này.
Nhưng rồi Peter phát hiện rằng đó không phải là đất. Mà là nước. Một khu biển nhân tạo rộng lớn nằm sâu trong đất liền, chia cách với bãi biển bằng một cái đập đá. Có những bờ gỗ cao chéo qua chéo lại mặt nước như bàn cờ. Những lối đi lát thanh gỗ mỏng cao cách mặt nước khoảng hơn chục phân.
Peter thấy mấy người Nhật chạy tán loạn trên những gờ gỗ nhỏ cao trên mặt nước cúi xuống, kéo lên những cái gì đó trông như lồng sắt. Peter không thể nhìn thấy trong lồng có gì, nhưng người Nhật lom khom như đang lục lọi những gì chứa trong đó.
Peter không còn biết được ai trong số đó là Kyoto nữa, nhưng Peter đếm được năm hình bóng đang lúi húi nên hẳn Kyoto là một trong số người đó.
Peter đứng núp trong bụi cây thêm nửa tiếng nữa. Không có gì xảy ra. Không có gì thay đổi. Thỉnh thoảng bảo vệ đi tuần tra dọc theo hàng rào. Có ít nhất ba người bảo vệ.
Bây giờ thì Peter nhìn thấy rất rõ. Công nhân kiên nhận lom khom trên mấy cái lồng sắt. Thỉnh thoảng, họ thả một cái lồng trở xuống nước, kéo một cái khác lên.
Mòng biển và bồ câu lượn qua lại trên đó. Nhưng điều đó không có gì là bất bình thường cả. Trên bãi biển nào cũng có mòng biển và bồ câu.
Đã đến lúc về báo cáo, cuối cùng Peter quyết định. Peter nhớ có thấy một trạm xăng trên xa lộ cách đó khoảng một dặm. Cậu kéo xe đạp ra khỏi bụi cây, đạp đến trạm xăng với vận tốc cao nhất.
Tại bộ tham mưu, Hannibal trả lời điện thoại ngay Peter trình bày nơi mình đang ở, cách bãi biển Wills khoảng một dãi. Peter nói sẽ chờ Hannibal và Bob lại trạm xăng.
Khi ra khỏi buồng điện thoại, Peter ước tính Hannibal và Bob sẽ mất khoảng một tiếng để đến. Peter mua một lon nước ngọt và một thanh sôcôla, rồi tìm chỗ bóng mát để chờ.
- Xe ngon quá.
Anh nhân viên trạm xăng đi ngang qua khen chiếc xe đạp đua Anh của Peter. Peter cảm ơn. Anh chàng nhân viên, chỉ hơn Peter khoảng hai ba tuổi, cũng rất thích xe đạp. Anh chàng thân thiện nói chuyện với Peter về các kiểu, các đời xe đạp. Mãi một hồi Peter mới nghĩ ra rằng có thể anh chàng này sẽ cung cấp thông tin có ích cho mình.
- Cái chỗ trên kia, - Peter nói - có hàng rào kín và bảo vệ là chỗ gì vậy?
- Theo những gì mình nghe được, - Anh nhân viên trả lời - thì đó là một trại nuôi trai. Một tay Nhật giàu sụ nào đó đã mua chỗ đó cách đây vài năm. Ông ta cho đào đất, rồi cho nước biển tràn vào. Nghe nói họ nuôi trai trong đó.
Xe cộ đến nhiều hơn và anh nhân viên bận đổ xăng cho đến khi Hannibal và Bob đến.
Thám tử trưởng chảy mồ hôi và thở hổn hển sau chuyến đạp xe dài, nhưng không chịu uống nước ngọt.
- Nhiều calôri quá. - Hannibal giải thích rồi ra vòi nước để giải khát.
Sau đó Peter lôi hai bạn ra một góc, kể lại tất cả những gì đã xảy ra, tất cả những gì đã biết được từ sáng đến giờ.
- Trại nuôi trai. - Hannibal đăm chiêu lặp lại khi Peter nói xong - Bảo vệ. Parker Frisbee. Một gói xám to vuông. Cậu giỏi lắm, Perer à.
- Ừ, nhưng như vậy nghĩa là sao hả Babal? - Peter hỏi.
Thám tử trưởng không trả lời.
- Ta hãy cố gắng tìm một chỗ núp cho kín để theo dõi những gì sắp xảy ra tiếp theo. - Hannibal lại đề nghị thay câu trả lời.
Ba Thám Tử Trẻ chạy hàng một đến ngã ba, giấu xe đạp vào bụi cây, nằm xuống để quan sát con đường hẹp và cổng ở cuối đường.
Hannibal có mang theo ống nhòm. Hannibal chỉnh tiêu cự ống nhòm vào nhóm công nhân đang lom khom xuống những cái lồng sắt.
- Đúng là con trai trong mấy cái lồng kia - Thám tử trưởng nói - Thật khó biết họ đang làm gì, vì phải nhìn qua hàng rào, nhưng dường như họ mở vài con ra.
Bây giờ mặt trời đã lên cao sáng chói. Pete ước mình có mang theo một lon nước ngọt khác từ trạm xăng Peter đeo mắt kính đen vào, nằm ngửa ra, nhắm mắt lại.
Đến mười hai giờ trưa, một người bảo vệ thổi tu huýt. Công nhân Nhật ngưng tay để ăn trưa. Họ nghỉ tại chỗ trên những gờ gồ, ngồi giữa nắng, ăn trong hộp đồ ăn.
Mòng biển và bồ câu quay quẩn bay lượn quanh họ, hy vọng có được miếng đồ ăn thừa. Nhóm người Nhật đuổi chúng đi. Cuối cùng bầy chim bỏ cuộc, cất cánh lên cao, bay đi mất.
Hannibal hạ ống nhòm xuống. Khi thấy công nhân Nhật ăn trưa, thám tử trưởng mới nhận ra mình đói bụng đến mức nào. Hannibal cố tống khứ ý nghĩ về thức ăn ra khỏi đầu bằng cách tập trung suy nghĩ về vụ bí ẩn con bồ câu hai ngón và những con chim bị giết chết. Hannibal vô tình bắt đầu véo véo cái môi dưới.
Cái gói xám mà Peter đã nhìn thấy Parker Frisbee bỏ vào sau xe tải nhẹ màu xanh lục có gì? Theo Peter, thì Kyoto đã bỏ lại trên xe khi bước qua cổng cùng với hộp đồ ăn trưa.
Hannibal lay Peter dậy.
- Kyoto có khóa cửa sau xe không? - Thám tử trưởng hỏi trong khi Peter ngẩng đầu dậy.
Hannibal không thể nhìn thấy mắt Peter đang mở hay nhắm vì Peter đeo kính đen, nhưng dường như Peter ít nhiều tỉnh táo.
- Không - Perer trả lời với giọng buồn ngủ - Không, mình chắc chắn là không có khóa.
Peter hạ đầu xuống ngủ tiếp.
Hannibal xem xét các khả năng. Hannibal có thể kín đáo sau xe tải nhẹ xanh lục, mở cửa ra, leo vào bên trong, rồi đem cái gói xám đó ra không? Thám tử trưởng đành phải thừa nhận rằng câu trả lời là không được. Đội bảo vệ có vũ trang không hề nghỉ trưa, mà vẫn đang trực trước cổng và tuần tra dọc theo hàng rào.
Vài phút sau, tu huýt lại vang lên. Đám công nhân đóng hộp ăn trưa lại, tiếp tục làm việc, phân loại mấy con trai trong những lồng sắt.
Hannibal cố gắng căng mắt ra nhìn. Nhưng không có gì để quan sát, không có gì mới mẻ. Trời nóng nực, không khí yên tĩnh với cái đói đang dần chiến thắng Hannibal. Hannibal cảm thấy mí mắt nhắm lại. Đầu gục xuống.
Hannibal mơ thấy mình đang ăn một cái bánh hồ đào, với rất nhiều kem. Hannibal vừa mới xắn cái nỉa xuống lấy miếng bánh thứ nhì...
Tiếng tu huýt ré lên đánh thức Hannibal tỉnh dậy. Hannibal nhìn đồng hồ thấy đã ba giờ chiều. Nhóm công nhân Nhật đang thả lồng sắt trở xuống nước, rồi đứng dậy từ từ bước ra cổng.
Sau giấc ngủ trưa này, đầu óc Hannibal đột nhiên minh mẫn hẳn lên. Mắt kính đen, Hannibal nghĩ bụng, và suy nghĩ này như một phát minh. Parker Frisbee đã đeo kính đen khi ở khu rừng nhà Maureen Melody và cũng đeo khi ở bãi đậu xe Ngân hàng Trustee. Cả hai lần đều là đeo kính khi trời đêm. Nhưng kính đen không chỉ che mắt khỏi ánh nắng, mà còn khỏi những người khác nữa. Hannibal đã không biết được mắt Peter đang nhắm hay mở.
Hannibal nhìn qua hàng rào kèm gai. Đám công nhân Nhật không bước ra cổng mà đang đi vào một nhà chòi gỗ. Rồi Hannibal thấy rằng tất cả bảo vệ cũng vào đó theo.
Hannibal nhanh nhẹn đứng dậy, chạy thật nhanh qua xa lộ, xuống con đường nhỏ dẫn đến bãi đậu xe.
Bob mở mắt ra, không thấy ai bên cạnh mình. Hannibal đâu? Hannibal đi đâu mất rồi? Rồi Bob nhìn qua xa lộ thấy thám tử trưởng đang mở cửa sau xe tải nhẹ leo vào bên trong. Cửa xe đóng lại.
- Chết rồi! - Peter ngẩng đầu lên nói.
- Bọn mình phải làm gì bây giờ? - Bob hỏi Peter - Ý mình muốn nói không biết Babal muốn bọn mình làm gì? Cậu có nghĩ Hannibal sẽ trốn trong xe tải nhẹ của Kyoto và theo xe trở về cùng Kyoto không?
- Không biết nữa - Peter cũng có vẻ không hiểu ý như Bob - Nhưng nếu Babal muốn bọn mình làm một cái gì đó, thì Babal đã nói rồi, đúng không?
- Phải. Có thể Babal chỉ đang lục soát trong xe tải nhẹ thôi. Có lẽ bạn mình nên chờ Babal ở đây. Hy vong Babal sẽ kịp trở về trước khi Kyoto...
Bob định nói “Trước khi bị Kyoto bắt...”. Nhưng không có dấu hiệu gì về Kyoto và bất cứ ai khác. Không thấy công nhân Nhật đâu hết. Không thấy bảo vệ đâu hết.
Bob lấy ống nhòm nhìn qua những lối đi bằng gỗ nhỏ lên trên mặt nước, qua hàng rào kẽm gai. Bob dừng lại ở cửa sổ một nhà chòi gỗ.
Rất khó nhìn rõ hơn, nhưng Bob vẫn thấy được rằng nhà chòi đầy ắp người Nhật và bảo vệ. Người Nhật đã cởi hết quần áo ra. Dường như bảo vệ đang lục soát quần áo họ, tìm kiếm trong hộp ăn trưa.
Bob hạ ống nhòm xuống. Hannibal đang chạy trở về. Thám tử trưởng nhào vào bụi cây, nằm xuống cạnh Bob. Thám tử trưởng thở hổn hển, mặt đỏ gay, nhưng mắt kích động.
- Bảo vệ đang lục soát họ, đúng không? - Hannibal hỏi ngay khi thở lại bình thường được.
Bob gật đầu.
- Dường như thế. Họ tìm gì vậy Babal?
Thám tử trưởng không trả lời ngay.
- Mình cũng đã tìm kiếm, - Hannibal nói sau một hồi - mình đã biết được cái gói xám trong xe tải nhẹ của Kyoto chứa gì. Không phải cái hộp đó gói giấy báo đâu, Perer à. Có lẽ chỉ trông giống như giấy báo, hơi xám xám, dưới ánh sáng bình minh mờ mờ. Thật ra cái hộp gói bằng vải thưa.
- Vải thưa - Perer lặp lại - Giống như cái hộp của Blinky hả?
- Y như thế - Hannibal đáp - Lớp vải đã lột ra. Nhưng cái lồng vẫn còn nằm sau xe tải nhẹ. Lồng trống không. Nhưng mình dám chắc lồng không trống trơn lúc Frisbee bỏ lên xe sáng nay. Bởi vì mình đã tìm thấy cái này.
Hannibal đưa tay lên cho Bob và Peter xem cái đã tìm thấy. Một hạt bắp.
- Bồ câu, - Peter nói - Kyoto chở một con bồ câu nhốt trong lồng...
- Và Kyoto đã đưa lậu con chim qua cổng trong cái hộp đồ ăn trưa - Hannibal nói tiếp - Việc này khá dễ. Bảo vệ không lục soát công nhân Nhật khi đi vào. Mà chỉ soát khi ra thôi.
Bob chau mày, ra vẻ không hiểu.
- Vậy bảo vệ tìm cái gì? - Bob hỏi.
- Ngọc trai - Hannibal kiên nhẫn giải thích - Chính vì vậy mà có mấy con trai. Đây là một trai nuôi trai lấy ngọc.
- Ngọc trai cấy - Hannibal lặp lại - Ngọc trai và bồ câu đưa thư.
Ba Thám Tử Trẻ đang gặp lại nhau tại bộ tham mưu sau khi rời trại nuôi trai lấy ngọc. Cả ba đang ăn những khúc bánh mì kẹp thịt mà thím Mathilda đã chuẩn bị cho. Hannibal đã cắt khúc bánh mì thịt của mình ra làm đôi và quyết định chỉ ăn một nửa thôi.
Bob đến cuối cùng. Cậu ghé qua thư viện lấy hai quyển sách mà Hannibal yêu cầu.
- Sách nói gì về ngọc trai cấy? - Hannibal hỏi.
Bob mở một quyển sách ra tựa đề là “Đá quý”. Bob lấy ra một tờ giấy có ghi chép.
Danh sách chương