Ở cuốn lịch năm ấy bìa vàng nhoè nét son dấu kim ấn tòa Khâm Thiên Giám cỏ niên hiệu Duy Tân thập niên, người ta thấy tiết thu phân và ngày lập thu qua đã lâu rồi.
Mùa mưa dầm tháng chín chỉ là những giọt nước mắt triền miên than vãn của kì thất tịch còn sót lại mãi đến bây giờ. Xứ đồng chiêm Sơn Nam hạ đã biến thành một vùng nước mất hẳn bờ, trên đó nhấp nhô những con đò đồng lí tí. Ngọn sóng đồng hỗn loạn vỗ tung bùn vào mép những con đường đất thô nhuyễn và những lũ tre già ướt át. Làng mạc vùng quê Nam Ðịnh nhoi lên khỏi làn nước trắng lạnh như những quần đảo hoang vu.
Nước một mùa mưa hợp các xứ đồng chiêm lại thành một khối lớn và trên cái đoàn kết của nước đồng hiu quạnh, những con thuyền thúng đi về nhiều như lá tre rụng mùa thu. Đêm mưa giỏ, mặt nước bằng rộng âm hưởng rất xa cái tiếng kêu đánh cướp nhóm lên từ những hòn cù lao lẻ loi.
Bên bờ đường cái quan, hoa hoè nở vàng khè. Dậm hoè đất Sơn Nam hạ trổ bông đã từ lầu. Hoè đã rầu cánh, màu vàng úa tối mãi xuống.
“Hoè hoa hoàng, cử tử mang.”
Thấy dậm hoè ngả màu vàng, lòng những người có chứ bắt đầu bận bịu. Dưới mảnh trời sụt sùi, hoa hoè nở đều, làm ấm lại lòng người sĩ tơ tưởng đến sự hiển đạt về sau này. Màu vàng của sắc hoa nơi dậm hoè dài đã nhắc bao nhiêu học trò vùng Sơn Nam hạ nghĩ đến cái màu vàng một tấm giấy cáo trục phong tặng hoặc là phần hoàng mai sau cho hai đấng sinh thành.
Ôm khư khư một hòm kinh truyện sũng ướt nước mưa, ngồi trong lòng một chiếc đò đầy đang tìm lại bến cũ, ông Đầu Xứ Em nghĩ xem giờ xuống tỉnh, nên trọ nhà ai cho tiện trong suốt một kì thi, vì nhà bà Phùng đã chật chỗ rồi.
Hoa hoè lả tả đánh rớt những cành vàng nâu cuối cùng lên bả vai bao nhiêu học trò các vùng đổ về tỉnh Nam. Năm nay nhà nước mở khoa thi, một khoa thi cuối cùng. Có những ông đồ già tóc râu đã ngả màu vì sự đùa nhả của công danh đánh lừa mình suốt mấy phen, chuyến này cũng cố chen ra, hồ vớt lấy một chút phấn hương cuối mùa của triều đình.
Trường Hà Nam hợp thi khoa Mậu Ngọ có ông Đầu Xứ Em dự, còn nhộn nhịp gấp mấy khoa Ất Mão trước.
Khoa Ất Mão trước, ông Ðầu Xứ Anh bị loại ngay vòng đầu, bay kì kinh nghĩa.
Khoa Mậu Ngọ này, ông Ðầu Xứ Anh nhất định không đi nữa, mặc dầu khoa này là khoa cuối cùng, sau này bãi hẳn sự thi cử. Ở vào buổi giao thời, nếu người ta còn cái lòng công danh, thi khoa thi Mậu Ngọ là một cơ hội cuối cùng. Từ Mậu Ngọ trở về sau, sẽ mở một thời khác, chữ Hán chỉ còn là một thứ xa xỉ phẩm trong cõi học vấn của một lớp người. Từ sau khoa này, cái lều, cái chõng chỉ còn là những vật cổ tích, mỗi khi nhắc nhỏm tới lại gợi lại một chút nhớ tiếc trong lòng một đám người mệt mỏi còn sống thêm một ngày là càng chỉ thêm một ngày bỡ ngỡ với phong hội mới.
Ông Đầu Xứ Anh nhất định không nộp quyển khoa này, tuy bao nhiêu người, từ Quan Đốc tỉnh cho đến anh em đồng song, thảy đều gởi hy vọng vào ông. Thơ phú làm rất nhanh ; sách nhớ có thể vạch ra từng chương, từng tiết một. Tính người lại điềm đạm đa hậu: ai ai đều khen nhà ông có đất học, rồi lại lấy làm lạ cho ông. Có một ông tam trường khoa trước lại ngờ rằng hay khoa này, tại nhà nước bắt đám sĩ tử phải chụp ảnh dán vào quyển nộp mà ông Đầu Xứ Anh không đi chăng? Có một hôm, ông cùng mấy người dạo chơi ở phố hàng Thao, nhận được tin này chính ông Đầu Xứ Anh đã kêu: “Từ trước tới nay, có bao giờ như thế. Bề trên đãi đám sĩ phu trong nước thật không ra cái gì.”
Hôm người em là ông Đầu Xứ Em xuôi tỉnh để sửa soạn đi thi, ông Đầu Xứ Anh đưa ra khỏi cái dốc đầu làng và lúc ông Đầu Xứ Em đã ngồi gọn trong con đò, ông dặn:
- Xuống tỉnh, nhà bà Phùng đã đông người ở trọ rồi, có phải ở chỗ khác, chú có ở đâu, cũng cứ lại đấy mà nhắn cho tôi rõ. Đến hôm các quan tiến trường, cữ hạ tuần tháng này, thể nào tôi cũng có mặt dưới tỉnh.
Vốn tính phong tình người em đứng dậy, làm chiềng con đò đầy, nói với lại:
- Cô Trinh, con gái út bà Phùng, hình như vẫn chưa lấy chồng phải không anh? Khoa Tý ngày trước anh cũng trọ ở đấy phải không? Đáp lại cái vui đùa của em muốn tiết nỗi hoan lạc ra ngoài một cách quá độ để trấn tĩnh cái rối ren trong bụng một người đi thi, ông Đầu Xứ Anh đã nghiêm nghị một cách bất đắc dĩ nói lảng ra ngoài câu hỏi:
- Cứ quanh quẩn ở phổ Cửa Trường ấy thôi nhé. Ði về nó tiện hơn. Ở đấy dễ gặp anh em các nơi đổ về.
Biết đấy là một cậu học trò xuống tỉnh thi, mấy đám hàng xáo người làng trên qua đây ghé đò xuôi chợ, không nhao nhao lên nữa như lúc mới nghiêng mạn đò vừa rồi. Họ ra vẻ nể nang, ngồi thu hình lại, quơ lại một góc mấy lũ tay nải và bị cói, cốt để dọn cho cái người có chữ kia một chỗ ngồi rộng rãi. Đáy con đó dính chắc vào đất sét lòng bến nông. Cô hàng gạo, buộc lại mũi khăn mỏ quạ, nhìn cậu khoá không mỏi mắt và mỗi lúc ngượng nghịu lại nhổ xuống đồng nước một bãi quết trầu. Gió đồng hôm nay không thổi. Bãi quết trầu đỏ lặng im giữa làn nước nhợt nhạt, rồi chậm chạp tan hòa vào nước đồng chiêm, mỗi khi nhìn rộng ra, chỉ rặt một màu bao la nhờ nhờ. Người lái đò mặc áo tơi phủ kín thân hình, chụp nón mê lấp cả mặt, đã rút đầu sào khỏi mặt nước. Con đò đầy cựa quậy, bốc nhẹ, rồi trườn mình ra xa. Trời bắt đầu nổi giỏ rét. Mưa thu lại lộp độp rớt xuống đám áo tơi nón lá của một chuyến đò đồng. Dưới gốc cây hoè già ở dốc đê làng, ông Đầu Xứ Anh vẫn chưa chịu trở gót.
Sớm tinh mơ ngày hai mươi nhăm tháng chín các quan làm lễ tiến trường tại khu trường thi Nam Ðịnh. Hai chiếc lọng vàng phủ nghiêng xuống lá cờ và tấm biển cỏ chữ “phụng chỉ” “khâm sai” và bốn chiếc lọng xanh ghé sát thấp tịt xuống cái đầu bạc của một ông đại khoa. Mùi nghi vệ mới phảng phất ít hôm trước thì sớm nay đã chan hòa nổi dậy trên một khoảnh đất mà mọi khi chỉ có hoang vu và bằng lặng.
Ánh sáng ban ngày đi vắng mãi tự những đâu mà đến bây giờ vẫn chưa thấy trở về. Từ hôm có gió vàng pha mùi cơn bấc đến nay, người ta chưa bao giờ thấy cái âm u tẻ lạnh đến nhường ấy. Mãi đến bây giờ là gần giữa giờ thìn rồi mà tối và sáng vẫn còn chưa phân tách hẳn ra. Người ta đứng bao quanh đàn cúng, vẫn chỉ thấy ánh sáng mấy chục ngọn nến bạch lạp rọi vào lớp da hoen ố vệt lửa cháy của đàn tế, trên đó phủ phục ba cỗ tam sinh còng queo: một con trâu và một con dê đen thui kèm một con lợn cạo trắng mở to cặp mắt chết.
Mặt đất sáng hơn nền trời. Cõi tự nhiên, một buổi sáng mùa thu có cuộc tế tiến trường, hình như đang lắng chờ một tai biến gì. Gió cũng không muốn thổi. Mấy ngọn sáp không lung lay, vệt khói xám nơi bình hương bốc lên thẳng thắn nơi bàn tam sinh.
Nền trời phương Đông đáng lẽ phải hửng lên để đón lấy chiêu dương. Thế mà ở đấy chỉ rặt một thứ mây đục đùn lên những hình Quỷ Ðông và, nơi phía Tây, một cái cầu vồng cụt một chân, tô lên trên tạo vật có tang ma, những màu xanh đỏ rực rỡ và rờn rợn. Trong cảnh âm dương hỗn loạn không chia biệt rõ, quan chánh chủ khảo trường Hà Nam hợp thi khoa Mậu Ngọ, đang tế cáo trời đất vua thần thánh và suýt soa khai xong tên, tuổi, quê, quán ngài khấn:
“…Báo oản giả, tiên nhập, báo ân giả, thứ nhập…”
Có lẽ đoạn khấn này là khoản chú trọng nhất của lễ tam sinh và đã được quỷ và thần chứng giám. Người lính tuần mặc ảo nẹp đỏ vừa được lệnh đổ chén rượu cúng xuống tàn lửa đống vàng đang hoá dở thì những đầu ngọn cỏ may im lìm nơi bãi trường thi đều rung lên một nhịp và theo một chiều. Người ta, hồi nãy sống một cơn mơ giữa khoảng ban ngày u uất, bây giờ trông thấy một cơn mơ đang tàn dần. Một thứ gió u hiển thổi thốc mãi vào bãi trường, nghe lào sào như có tiếng người chen chúc và chạy vào choán chỗ. Những cây nến cháy vạt ngọn bỗng tắt phụt hết.
Không gì xa vắng bằng cái động đậy trong đìu hiu của muộn loài.
Trời đất trong sáng lại lần lần.
Hai anh em ông Ðầu Xứ Ngoạt (lấy tên tục của làng nguyên quán là Cổ Nguyệt) lững thững ra về, ông Đầu Xứ Anh bụng buồn lắm mà không dám nói ra.
Ba năm trước, cũng ngày tế tiền trường năm Mão, cảnh trời đất cúng âm thầm gần bằng ngày này. Quan chánh chủ khảo khoa ấy, theo tục lệ quen của mỗi khoa thi, cũng cúng tam sinh khấn mời những oan hồn nên nhập vào trường trước hết mà báo oản trả thù. Rồi ông Ðầu Xứ vào trường, rồi oan hồn hiện lên ngay ở kì đệ nhất. Một người đàn bà trẻ, xoã tóc, ẵm con, hiện ngay lên dưới lều, ngay chỗ đầu chõng, kêu gào giữ rịt lấy tay không cho viết. Gào khóc chán, người đàn bà ấy lấy mớ tóc xoã quất vào mặt ông cứ bỏng rát lên và cười sằng sặc, lấy nghiên mực đổ vào quyển của ông. Lần ấy ông xin cánh quyển đến hai ba thứ. Vẫn người đàn bà quấy nhiễu không tha, để quyển ông cứ tì ố mãi. Lúc gần chiều, ông nổi một cơn đau bụng hoắc loạn, phải bỏ dở kì thi, nhờ người dìu về nhà trọ. Thế là ông bay ngay kì kinh nghĩa. Một người đầu xứ hay chữ và được Quan Đốc khen ngợi luôn mả hỏng ngay nhất trường thì có thảm thương không. Cũng may mà còn có người lấy được cái bản thảo giáp bài của ông đem về, ông còn giữ được đến giờ, nếu không thì nhục cho gia sáo biết là chừng nào. Ông cụ thân sinh ra ông, cụ Huấn là người nổi tiếng một vùng, ông xem lại bản giáp đưa cho các bạn đọc, ai cũng lấy làm tiếc. Hơi văn đi mạnh như thế có vào đến kì hội thi cũng cứ lọt, mọi người đều chắc lưỡi tiếc rẽ. Cái người bạn cùng một vi với ông, sau khi đem trả ông cái bản giáp đó, đã tìm đến phòng trọ đưa tạ ông ba chục quan tiền kẽm:
“Ðại huynh lúc không may lâm bệnh rời bãi trường, phải bỏ lại trên cỏ bản giáp bài kinh nghĩa. Là một người tự biết mình bất tài, tiểu đệ đã mạn phép hiền huynh điền vào quyển của đệ những lời gấm hoa đanh thép bị bỏ phí kia. Nay được vào kì đệ nhị, gọi là có món quà mọn gửi lại xin đại huynh nhận cho”.
Biết là có oan hồn hiện lên cố phá không cho mình mở mặt với thiên hạ, ông để tâm tra xét chuyện nhà. Thì ra, lúc sinh thời, cụ Huấn đẻ ra ông đã phạm vào một việc thất đức. Lúc sinh thời cụ Huấn, cụ đã mang lấy trách nhiệm tinh thần về cái chết của một người nàng hầu tài tình nổi tiếng một thời. Người thiếp đó, lúc tự ải, đã có mang được sáu bảy tháng. Cái âm oán ấy còn theo đuổi ông mãi, nếu ông cứ còn lều chiếu ở cửa trường thi. Đấy là lời người thiếp đó lúc ốp vào con đồng khi phụ lên. Nàng xưng là cô và gọi ông Đầu Xứ Anh là nó, cười sằng sặc và giọng nói the thé: “Nó còn đi thi, cô còn báo mãi. Các người hỏi cô muốn những gì ấy à! Cô muốn, cô muốn nó phạm huý, cho nó bị tội cả nhà kia. Nhưng nhà nó cũng cỏ một ông mãnh thiêng lắm, cô không tàn hại nó được như lòng cô muốn”. Con đồng chỉ lắc lư nói có thế, nếu có gặng hỏi thêm thi chỉ khóc hu hu rồi lại lăn ra mà cười như bị cù. Ông Đầu Xứ lạnh đến tuỷ xương sống trong người. Và lo nghĩ từ ấy.
Khoa thi này ông định không ra nữa để ông Đầu Xứ Em nộp quyển thôi, thử xem hồn oan có còn báo được nữa hay không. Ông tin ở học lực người em ruột, sao cũng lấy về cho làng Ngoạt, hên ra cũng được cái Tú Tài. Khoa cuối cùng, thêm phần luận quốc ngữ và phép tính và đo lường theo lối học mới, nhưng chú nó thông minh vốn thiên bẩm và gần đây tân thư và toàn pháp đọc rất nhiều, cũng không lấy gì làm ngại lắm. Nhưng mà phúc phận con người ta, ở một sĩ tử, biết sao mà định đoạt trước được.
Còn năm hôm nữa mới nhập trường. Mãi đến ngày sóc tháng mạng đông mới gọi tên bốn năm ngàn người vào kì đệ nhất. Cơm nhà trọ, luôn mấy ngày nay, bữa nào cũng hết một bình rượu.
Vào mấy ngày mong chờ hai anh em ông Đầu Xứ, những lúc trời ngớt hột mưa, thường nhẩn nha ở phổ hàng Giấy, chọn một thỏi mực, thử lông một cây bút thỏ hay là soi lên ánh nắng một giấy bản. Ông Đầu Xứ Anh cố quên chuyện cũ hết sức vui vẻ trong khi đi lục lọi giấy bút cho em ở các cửa hàng sách phố hàng Giấy. Những người văn nhân lượn lên lượn xuống nơi phố này nhiều đến nỗi không nhớ được mặt ví có gặp ngay lại một lần thứ nhì.
Cái cửa hàng sách gọn ghẽ, xinh xắn được nhiều thầy khoá lui tới nhất là cửa hàng cô Phương. Ðám học trò vào cửa hàng cô để mua cũng có, và để nghỉ chân vả giải trí cũng có. Cô Phương, ở phố hàng Giấy, ngày trước là một người đanh đá chua ngoa có tiếng. Có một lần một cậu học trò vào hàng cô chọn bút. Cô đưa bút Song Lan, Thanh Chi, Nhất Chi rồi Kiều Lan, rồi đến Lan Trúc; người thư sinh mặt trắng rút tháp bút, cho bút vào miệng, ấn toè đầu bút vào lòng bàn tay xoè, để thử soi lông bút lên ánh sáng có đến mấy mươi lần rồi mà cứ lắc đầu hoài, chê xấu. Anh chàng nhất định hỏi cho được cái thứ bút Tảo Thiên Quân mới chịu lấy. Thấy thầy khoá ăn mặc đồ vải xuềnh xoàng, cô Phương ra giọng bỉ thử: “Có Tảo Thiên Quân lông trắng, nhưng mà những hai quan một chiếc”. Tiếp cái nguýt dài của cô hàng sách càng ngồi giãi thẻ thêm ra, người thư sinh mặt trắng chỉ tay lên tít trên đầu tủ: “Phải, Tảo Thiên Quân lông trắng ; có còn thứ nào những năm sáu quan một quản, cô lấy cho tôi chọn”. Lúc nói câu này, thầy khoá cố dằn giọng vào chữ “những”, có ý bảo thầm cho nhà hàng biết rằng nên khinh người vừa vừa chứ. Cô Phương bẽn lẽn, nhưng cũng cố đứng dậy lấy thứ bút quý cất mãi trên cùng tột lớp tủ, đưa cho thầy khoá, chỉ đợi nếu anh chàng không mua nổi chiếc nào thì sẽ mắng một trận như tát nước vào mặt cho bõ ghét. Lấy luôn một lúc bốn chiếc Tảo Thiên Quân, trả tiền xong xuôi, người thư sinh mặt trắng dúng một ngòi bút vào một mảnh giấy nơi mặt hàng. Những giòng chữ viết rất tốt kia, sự thật, chỉ là một bài thơ chữ nói mát cô hàng có tính chỏng lỏn. Từ đấy, cô Phương đâm ra gờm những thầy khoá có tính ỡm ờ và trở nên rất ngoan ngoãn đối với bạn hàng, bất cứ là ai. Sau cô hỏi thêm, mới biết người thư sinh rất khó tính trong sự lựa bút và tác giả bài thơ bóng giỏ ấy là cậu Đầu Xứ Ngoạt. Năm Mão, phong thanh người thiếu niên tài hoa ấy thụ bệnh trong trường và bỏ dở khoa thi, cô Phương đã ra mặt ái ngại tiếc than với những người chung quanh. Trong tâm một cô hàng sách nhỏ phố hàng Giấy, đang nhú lên một cái mầm của yêu thương, gắn bó và đợi chờ.
Cho đến mãi Ngọ năm nay, ông Đầu Xứ Ngoạt mới trở lại cửa hàng cô Phương. Ông Ðầu Xứ Em còn lần lựa ngoài mặt hàng, chưa bước vào nhà.
Trên mấy tấm cửa lùa ngả xuống hai cái mễ gỗ, nhô hẳn ra vỉa hè, một cuốn Chinh phụ ngâm diễn nôm đã ghìm bước ông Đầu Xứ Em lại. Thấy có bóng khách vào hàng, cô Phương đặt cuốn truyện Lục Vân Tiên xuống, lấy móng tay đảnh dấu vào cái đoạn nàng Kim Liên đang “đẩy xe cho chị qua miền Hà Khê”, sắp cất tiếng chào khách, bỗng cồ ngờ ngợ, tủm tỉm muốn bật như cười. Cô nhìn không chớp mất, đôi má lúm đồng tiền phơn phớt nhuộm đào - cái màu hoa đào ngày năm nọ.
Ông Ðầu Xứ Anh hơi luống cuống, chưa biết hỏi món hàng gì thì may mắn quá, ông Ðầu Xứ Em đã tiến theo vào phá hộ cái yên lặng.
- Này anh, lấy một cuốn Chinh phụ bản nôm, về nhà trọ ta ngâm nga chơi cho nó hết mấy ngày đợi cái bảng nhập trường.
- Ờ thích được ngâm nga thì cứ lấy về. Có gì mà phải bàn bạc nữa.
Cô Phương hết nhìn người anh, lại nhìn sang người em. Cô đoán họ phải là anh em ruột thì mới giống nhau như tạc đến thế. Vả chăng hồi gần đây cô có nghe đến ông Đầu Xứ Anh cũng có một người em đỗ Ðầu Xứ và tài hoa đã làm trội cả một vùng tỉnh Nam. Ðúng là người mua truyện này đây. Chưa biết chuyện ông Đầu Xứ Anh không nộp quyển thi khoa này, cô Phương tự nói với mình: “Huynh đệ đồng khoa! Cải làng Cổ Nguyệt chuyến này tha hồ mà rước sách. Trong hai anh em, chả biết ai sẽ tủ tài, ai cử nhân. Mọi năm hai trường Hà Nội và Nam Định hợp lại, lấy sáu mươi
tư cử nhân. Năm nay khoa rốt, nhà nước đặc cách lấy những chín mươi tư cử nhân và cũng như mấy lần thi trước, cứ một cử nhân thì ba tú tài. Lọt sao được tay hai cậu Ðầu Xứ này.” Cô kéo cái ấm giỏ trong bục trong ra, giở nắp ấm thăm cái nòng chiếc ấm sứ, rót hai chén, cố hạ thấp vòi ấm xuống để nước không nổi bọt.
- Mời hai thầy quá bộ vào trong này xơi nước. Nước trà nụ ướp sói vừa pha đấy, nên mới dám mời hai ngài tân khoa.
Cô Phương cười, tự cho câu chúc sớm sủa đó lả có duyên lắm, hẳn là phải hay lắm và anh em ông Đầu Xứ Cổ Nguyệt phải thưởng thức. Thấy họ cứ đứng trân trân ra đấy, cô Phương thu dần nét mặt xởi lởi lại và ngồi ngẫm, càng nhận thấy cái vô duyên và vô lí của câu nói vừa rồi. Ai người ta chưa thi cử được một kì nào mà đã chúc với tụng. Cho đỡ ngượng, cô lại mời:
- Hai thầy xơi chén nước!
Ông Đầu Xứ Em chẳng biết cái gì cả, cầm chén, uống luôn, tưởng hễ cứ vào mua hàng người ta là mình có quyền được xơi nước mời. Khốn nạn, nào mà trước tới giờ anh có bao giờ nói chuyện cho nghe cái đoạn tình duyên thầm kín đã mấy năm nay giữa anh với cô hàng sách đâu mà biết. Ông Ðầu Xứ Em thấy anh còn trùng trình chưa chịu ngồi xuống cầm lấy một chén nước trà mà đầu lưỡi rất tinh của ông phải nhận là thơm ngon, ông càng chèo kéo ồn mãi lên.
Cô Phương cũng phải phì cười và làm cho ông Đầu Xứ Anh cười luôn thể. Con người nào đã biết e dè với cuộc sống, những lúc cảnh ngộ tinh thần sớm không cho mình phỉ sức hưởng thụ khi ở vào một cải tuổi ăn và ngủ đàng lẽ phải nhiều mỗi lần được vui cười trên mặt, thì cái cười ấy thật là thoả đáng, thật là đầy đủ và lại xinh đẹp là khác nữa. Nhân một cái vui tươi thế cho nét mặt nghiêm trang luôn luôn của ông Ðầu Xứ Anh, cô Phương nói một câu mà sự thân mật riêng tây đã không cần âm thầm nữa:
- Khoa Ngọ này là khoa cuối cùng, ông Đầu Xứ nên giữ mình làm trọng, chớ có đau bụng như kì năm Mão mà để thiệt thòi nhiều cho vùng Sơn Nam hạ lắm đấy, ông ạ.
Ðến chữ “ông ạ” ở cuối một câu nói, giọng rất thành thật cảm động, cô hàng sách có làm ra giọng bông lơn cho nó nhẹ bớt sự tha thiết của một câu nói đã lỡ nhời, đã thốt ra từ đáy một tấm lòng để đi sát vào một tấm lòng khác, bấy nay cũng vẫn chờ lúc được đãi đằng. Sự rất hữu tình mà cố làm ra vô tình bằng một cái giọng cố gò lấy, làm sao cho tránh khỏi sự nhận xét thông minh của ông Đầu Xứ Anh được. Ông biết lắm. Ông hiểu cô Phương để ý đến ông lắm. Không cần các bạn nói cho hay, không cần gặp gỡ, không cần âm tín tiêu hao, ba năm nay rồi, linh tính bảo cho ông biết thế. Nhưng từ ngày vấp ngay khoa thi đầu tiên, ở một kì đệ nhất, ông buồn uất vô hạn khi nhận thấy mình ra có còn lều chõng nữa cũng là chỉ đế lảm sống dậy, trong vòng oan trái, một cái oán cừu xưa cũ của ông cha di lại. Một cái oan hồn đã hiện lên để phá hại, đã ốp đồng vào miệng người sống để thốt ra toàn những lời hằn bọc, cái oan hồn ấy không chịu buông tha ai bao giờ. Hoá cho nên, rớt khoa Ất Mão ngay kì kinh nghĩa, ông nhận luôn cho nó là khoa cuối cùng, chẳng cần phải đợi đến khoa Mậu Ngọ cuối cùng này. Ngay dạo ấy, ông nói rất to rằng ông là thí sinh của một khoa thi thôi. Cô hàng sách không rõ, vẫn tưởng ông còn có bụng với sự lều chõng.
Ngắm kĩ cô Phương, ông thấy cái đẹp của cô già dặn hơn ngày năm trước. Muốn nói thêm vài ý nghĩ vui tươi nữa vào việc đánh giá cái đẹp, ông Đầu Xứ Anh bỗng ngừng lại. Bởi vì, – quái, sao mãi đến giờ ông mới nhớ nhận ra – khuôn mặt cô Phương cũng hao hao tợ như diện mạo người đàn bà ẵm con, xoã tóc ngồi rú kêu than nơi đầu chiếc chõng tre ở trong trường thi khoa nọ. Tự nhiên ông thấy cô Phương không hiền bậu nữa. Ông nghĩ đến những cái ghê sợ mà một cái sắc đẹp có thể giấu dưới nụ cười. Ông nghĩ đến những truyện ma quái lúc thay hình biến thể khi muốn hãm hại đám học trò. Ông nhớ lại cái cười gằn của oan hồn khi hiện thành người, quất đuôi tóc trần vào mặt ông cho ông hôn mê đi và cầm nghiên mực đổ chan hoà xuống quyển thi. Cái oan hồn ấy đã lên tiếng nói, thề quyết làm cho người
sống phải lụn bại mới nghe. Biết đến lúc nào cái người nàng hầu cụ Huấn mới nguôi giận và cái âm oán kia hết theo vết ông. Chuyện cũ của cha hồi sinh thời đi lại với người ta thật ông cũng chưa rõ hẳn đầu cuối như thế nào.
- Vâng, nhà có thứ mực Kiêu Kỵ đấy ạ, cô Phương nhanh nhảu trả lời ông Đầu Xứ Em.
Choàng tỉnh cơn suy nghĩ, ông đã vội bắt lấy việc mua mực khuyên em không nên lấy mực Kiêu Kỵ:
- Ði thi không ai dùng mực Kiêu Kỵ. Mực của xã Kiêu Kỵ chế rất tốt, chỉ hiềm mỗi khi viết xuống giấy, nó cắn bền chắc quá, khó tẩy đi lắm. Cô lấy cho mấy thoi Hoàng Tam Sương – vâng, nếu hết thứ chữ vàng rồi, cô cho thứ chữ bạc cũng được. Cái thứ mực hiệu Diệu Tự, “nhà ta” bán có được chạy lắm không hả cô?
Chà, người ăn nói sao mà xuôi tai dễ nghe đến thế. Cô Phương nhìn ông Đầu Xứ Anh, nhẩm trong óc mấy chữ “nhà ta”, tưởng đến cái ngây thơ của một đôi vợ chồng son kia trong lúc bù khú, chỉ mảnh trăng của cả thiên hạ mà nhận là của riêng của “nhà ta”, cô vui lòng quá, suýt quên cả việc soạn thoi mực cho khách.
- Cô cho tôi luôn thể ít chục tờ giấy lệnh nữa.
- Mấy chục tờ ạ?
- Cô đợi cho tôi tính xem dùng hết độ ngần nào thì không là thừa phí.
Làm ra bộ thông thạo thì ít. mà muốn tỏ sự thân mật thì nhiều – bao giờ được nên thân tình nữa nhỉ? – cô Phương co tay tính nhầm những cái gì, rồi cô ngấc đầu, vuốt mái tóc, nói với ông Đầu Xứ Em, giọng nhẻ nhót rất tự nhiên:
- Nộp ba quyển, kì đệ nhất, kinh nghĩa một quyền bảy tờ; kì đệ nhị thơ phú, một quyển sáu tờ và kì đệ tam, văn sách, một quyển mười bai tờ nữa, có dày lắm cũng chỉ đến mười bốn tờ là cùng. Ông định mua trữ giấy mang vào trường đề phòng những lúc phải cánh quyền hoặc đổi những trang hư hỏng, chỉ nên trữ lấy từng kì một.
Ông Đầu Xứ Anh vừa soi giấy lệnh vừa hỏi:
- Tại sao thế hở cô?
- Thưa, tại... tại là giấy chuyến này, thú thật với hai ông rằng không được mịn mặt lắm. Chuyến sau, có thuyền hàng phường neo về, thế nào cũng có giấy tốt hơn nhiều. Có lẽ kịp kì đệ nhị của các ông đấy. Để tôi xem nào.
Cô hàng sách, bán giấy bút cho học trò trường Nam đã mười năm cỏ lẻ, đã không phụ cái tiếng là một người thông thuộc những phong tục trường ốc. Cô Phương lại co tay tính nhẩm một hồi:
- Được rồi. Mồng một tháng mười là ngày vào kì đệ nhất. Có chóng lắm thì cũng phải hết cữ thượng tuần tháng mười mới có bảng vào kì đệ nhị. Phường giấy của tôi thế nào cũng có thuyền về bên trên mỏm sông trước ngày mồng mười. Đúng hôm tết trùng thập cúng cơm mời, các ông lại đây mua mở hàng cho kiện giấy lệnh Bưởi. Giờ các ông lấy tạm ít chục tờ dùng đở trong kì đệ nhất vậy.
Cô đếm giấy, thổi những tờ giấy chập đôi với cái nâng niu nhẹ nhàng của một người chị cả săn sóc đứa em thơ lúc mẹ già đi chợ chiều xa, chỉ có những người đàn bà đẹp và phúc hậu thì mới thổi được giấy như thế thôi. Cô đếm thành hai xấp, mỗi xấp đâu hai chục tờ. đùn một xấp vào phía ông Ðầu Xứ Em, còn cái xấp thứ nhì là lấy sau ở trong ruột đệp khác, cô trao tận tay ông Ðầu Xứ Anh, cặp mắt tình tứ linh động như muốn nhắc ông rằng cái xấp sau đây tốt hơn xấp trước và sự chênh lệch này trong lúc soạn giấy không phải là do ngẫu nhiên. Ra chiều tin chắc vào cái tài và cái may của hai anh em ông Đầu Xứ thi khoa này, cô hàng sách vẫn lấy cái cười duyên dọn đường cho một câu nói mà ở một cái miệng khác thì phải là thiếu lễ phép.
- Cánh quyền mà dùng bấy nhiêu giấy là nhiều quá lắm rồi đó. Phải thay quyển, đổi quyển đến quá ngữ giấy này, thì chỉ còn có ngồi mà lắng nghe ba hồi chín tiếng trống ngoại hạn...
Lúc ra về, ông Đầu Xứ Anh, trong một phút sầu hận, đã muốn trả lại cô Phương tập giấy, để thầm bảo cho cô hay rằng cô đã làm một việc thừa, riêng đối với ông, khoa Ngọ này ông có dự thi đâu.
…Mấy bữa nay mưa gió càng nhiều. Nước trên trút xuống, nước ở dưới dâng lên, người thu và cảnh ẩm sống trong một bầu không khí nồm lo lắng. Ngày ngày trăm nhà vùng Sơn Nam hạ lại nhận thêm lấy một cái tin đê vỡ tại đất Kinh Bắc.
Nằm nghe mưa rơi trên quán trọ xóm Cửa Trường, một đêm nguyệt tận năm Ngọ, từ tối đến giờ, ông Đầu Xứ Anh chỉ những hết lo xa rồi lại nghĩ gần. Trong một lúc mơ hoảng, ông lại trông thấy bóng cái người đàn bà mặc đồ trắng, xoã tóc, kiễng gót, thu một đứa trẻ con vào tà ào sổ gấu, đi tuột vào phía nhà cầu, ông ú ớ như người bị ma mộc đè, cố gắng mà không kiễng mình dậy được. Cái người đàn bà mặc đồ trắng, chân không sát đất, lại lẻn trở ra và, khi lướt qua mặt ông, cười gằn một tiếng, lấy tà áo quất vào má ông, buốt dức và giá lạnh như chưa bao giờ cảm thấy.
- Anh nói mê những gì thế?
Ông Đầu Xứ Em lác mãi, ông mới hoàn hồn, nhìn em một lúc lâu rồi hỏi:
- Chú đã soạn sửa lều chõng đủ rồi?
Trống đêm cuối thu và đông non điểm bốn tiếng đục. Uống hết một nai rượu để ngự hàn và khu phong mà nhà trọ đã dọn sẵn từ khuya, ông Đầu Xứ Anh bỏ thêm một đinh vàng lá vào tráp cua em:
- Khi nào thấy “khang khác” trong trường thi, chú đốt vàng cho nhiều vào. Thôi ta đi đi. Anh đưa chú vào đến cửa trường. Đưa tôi cải bộ gọng lều và chõng. Chú đeo lẩy ổng quyển và tráp. Ði đôi tất vào.
Ðêm mưa dầm vẫn tối như bưng lấy mắt. Hai cái tài hoa anh em kia, cộng lại không được bốn mươi nhăm tuổi đầu, bì bõm dắt nhau đi về phía cửa trường thi. Có tầm mưa gió và đi đêm như thế này, người ta mới thấy bước công danh là mệt và chán, giá cô Phương hàng giấy có đứng đây mà nhìn này! Ông Ðầu Xứ Anh bĩu môi. Trong tối tăm, tiếng thở dài người anh dẫn lối cho người em cứ lặng thinh bước từng bước một.
Bãi trường thi thấp hơn mặt nền tỉnh, nước mưa lụt dồn về, chôn ngập lút cả ngọn cỏ may. Đứng xa trông những cây đình liệu rọi trên bãi cỏ xâm xấp nước, người vô sự và không có chữ tưởng đâu như dân cả một làng nào đang đốt đuốc bắt ếch. Càng tiến gần lại trường, người ta có nhưng cảm tưởng rùng rợn như khi chịu bó tay đứng nhìn một đám cướp lớn bật hồng phá nhà lấy của trên xóm trên, trong những ngày lụt lội ở xứ bị thuỷ tai, quân cướp toàn đi bằng thuyền. Cái tiếng mắt nứa nổ to ở cây đình liệu cháy sắng, có khác gì cái tiếng đốt ống lệnh bật hồng của phường đạo tặc, lúc quân hồi vô lệnh.
…Ông Đề Điệu đã leo lên ghế chéo. Một người lính thể sát bắc ống loa, hô:
- Báo oán giả tiên nhập
- Báo ân giả thứ nhập
- Sĩ tử thứ thứ nh... ập.
Tiếng loa đồng xoáy sâu vào màn mưa lạnh. Ông Đầu Xứ Anh nghe tiếng hô, mặt nhợt nhạt, luôn luôn nhìn trộm em. Người em bây giờ chỉ là một thân cột cứng đờ mà sự thi cử đã mắc vào đấy biết đến bao nhiêu thứ múi dây lòng thòng: dây lều, dây chõng, dây buộc bộ gọng ống quyển... Cùng với ngàn ngàn người khác, hai anh em đứng nghểnh mãi cổ lên, kiễng mãi người lên như muốn nhìn rõ mặt người lại phòng xướng danh. Đã lâu chôn chân xuống bãi sũng nước, lòng dạ người người đều bàng hoàng. Bỗng ông Đầu Xứ Anh dun mạnh người em:
- Kìa... làng Cổ Nguyệt! Tên chú! Vào đi.
Trời sáng tỏ đã từ lâu. Cái hàng rào sĩ tử có dủ các hạng tuổi từ một cái đầu xanh mặt trắng cho đến một chòm tóc bạc, một lớp da mồi đã bị xé thủng. Ông Đầu Xứ Em lách mình qua rồi, nhưng lều chõng còn vưởng mắc nên lỗ thủng ấy chưa kịp hàn kín. Nhôn nhao một lúc lâu, cái bể người, đã lấp được chỗ trống của một con sông người tràn đi, lại bằng phẳng như cũ để chờ đợi một cải đổi dời khác. Ông Đầu Xứ Anh ra về, chỉ hận rằng lúc tới tấp, quên không dặn lại em nên đốt một lúc cho hết đinh vàng lá trong tráp nếu trong trường có thấy “cái gì khang khác”. Dọc đường, ông gặp một toán lính thanh khoá đội nón đĩa, nai nịt súng ống gọn ghẽ. Người ta bảo đấy là bọn lính nhà nước phái thêm vào trường giữ trật tự.
…Ông Ðầu Xứ Em dựng lều, dọn chỗ ngồi thi giữa sự dằn dỗi của trời đất. Mưa to gió lộng trên một trường thi. Cứ thế mãi mãi, cho đến qua giờ ngọ, cho đến quá giờ mùi. Vậy mà xưa nay người ta vẫn bảo mưa không quá ngọ gió không quả mùi. Sĩ tử khắp bốn vi giáp ất tả hữu, co ro trong lều dột, thật là coi tính mệnh mình không bằng một quyển thi chỉ luôn luôn muốn những chuyện tì ố. Chốc chốc cái loa đồng ngoài cửa trường lại kêu inh ỏi gọi các tư gia ai có thùng gỗ hay thùng sắt tây thì cho đem vào trường bán cho học trò kê quyển viết và độn thêm lên chõng ngồi.
Cái bản giáp bài viết xong lâu rồi mà quái lạ, hễ cứ động đặt ngòi bút lên mặt quyển là ông Đầu Xứ Em lại thấy đau bụng, đau quằn quại tựa chứng hoắc loạn cứ như dùi vào từng miếng tì vị. Ông cựa quậy nhiều lắm, vừa ôm bụng vừa giữ ống quyển. Cái chõng tre đặt trên bãi cỏ ngập, lủn xuống lần lần. Giữa hai cơn đau bụng, những lúc trời ngớt mưa, từ khu nhà thập đạo, vẳng về lều ông những tiếng kêu nài: “Lạy các quan, còn chỉ có một khoa thi này, xin các quan thương cho anh em đổi quyển. Trời mưa ướt lắm, anh em có muốn như thế làm gì...”
Thấy ở một vài lều chung quanh có khói lửa và tàn vàng bay ra, ông Đầu Xứ Em sực nhớ đến đinh vàng cất trong tráp, bèn lấy ra gỡ từng tờ một, xếp ngay ở đầu mép chõng, một tay chận cơn đau nơi bụng dưới, một tay châm mồi lửa bùi nhùi. Gió thổi vào đống lửa vàng hoá bùng bùng, lửa kêu vù vù và trong tiếng ngọn lửa reo, lại có tiếng người nói cười lanh lảnh. Khỏi bốc lên, tỏa xuống soai soải, Như những vệt nước thời gian trượt trên đầu ngọn tường xuống lần vách gạch những đền chùa xưa cũ có mốc vẽ hình, có rêu phong dấu. Những vờn khỏi nhẹ đã đổ xuống nhanh đổi màu
rất mau chóng. Trước mắt ông Đầu Xứ Em mê mệt và hoảng hốt, những vờn khỏi – thoảng mùi gây gây khét và tanh lợm – bỗng sẫm hẳn lại thành một mớ tóc xoã và mớ tóc u hiển không chờ đợi ấy đóng khung lấy một khuôn mặt người. Lửa vàng gần lụn, vụt bùng lên và tiếng cười lanh lảnh trở nên the thé, rồi nấc lên mãi. Trời đất tối sầm xuống. Ông Ðầu Xứ Em cảm thấy bãi trường là thừa lạnh lẽo. Trường thi âm u và không quạnh. Gió thổi bay quyển thi xuống làn cỏ dầm nước. Ông Đầu Xứ Em gắng nhoài người ra, muốn vớ lấy quyển bị gió thổi bốc khỏi mặt tráp. Nhưng ông hụt tay, chỉ đủ giữ mình khỏi ngã. Cơn đau bụng nổi lên dữ dội hơn hết những giờ phút vừa qua. Ông gục xuống tráp, thiếp dần.
Ông tỉnh giấc, thấy trong người nhẹ hẳn, tưởng chừng như cơn đau dữ dội ban nãy chỉ là một cơn ác mộng. Ông bỡ ngỡ, mất hết cả ý thức về thời gian và không gian. Ông ngơ ngác trước hoàng hôn. Từ một chòi nào, người ta đã điểm mau hồi trống ngoại hạn.
Ông Ðầu Xứ Anh ra đón ở cửa trường. Bỏ lại cả lều và chõng, cầm chỉ vỏn vẹn có một bản giáp ông Ðầu Xứ Em đã rời bước trong một giấc mơ.
Hai anh em gặp nhau, lẳng lặng không nói một câu nào suốt từ cửa trường về đến nhà trọ.
Bửa cơm ấy, tại nhà trọ bà Phùng có một người hỏng thi đã uống hết ba bình rượu cúc... vào một đêm dài nhất trong một đời người./.
Mùa mưa dầm tháng chín chỉ là những giọt nước mắt triền miên than vãn của kì thất tịch còn sót lại mãi đến bây giờ. Xứ đồng chiêm Sơn Nam hạ đã biến thành một vùng nước mất hẳn bờ, trên đó nhấp nhô những con đò đồng lí tí. Ngọn sóng đồng hỗn loạn vỗ tung bùn vào mép những con đường đất thô nhuyễn và những lũ tre già ướt át. Làng mạc vùng quê Nam Ðịnh nhoi lên khỏi làn nước trắng lạnh như những quần đảo hoang vu.
Nước một mùa mưa hợp các xứ đồng chiêm lại thành một khối lớn và trên cái đoàn kết của nước đồng hiu quạnh, những con thuyền thúng đi về nhiều như lá tre rụng mùa thu. Đêm mưa giỏ, mặt nước bằng rộng âm hưởng rất xa cái tiếng kêu đánh cướp nhóm lên từ những hòn cù lao lẻ loi.
Bên bờ đường cái quan, hoa hoè nở vàng khè. Dậm hoè đất Sơn Nam hạ trổ bông đã từ lầu. Hoè đã rầu cánh, màu vàng úa tối mãi xuống.
“Hoè hoa hoàng, cử tử mang.”
Thấy dậm hoè ngả màu vàng, lòng những người có chứ bắt đầu bận bịu. Dưới mảnh trời sụt sùi, hoa hoè nở đều, làm ấm lại lòng người sĩ tơ tưởng đến sự hiển đạt về sau này. Màu vàng của sắc hoa nơi dậm hoè dài đã nhắc bao nhiêu học trò vùng Sơn Nam hạ nghĩ đến cái màu vàng một tấm giấy cáo trục phong tặng hoặc là phần hoàng mai sau cho hai đấng sinh thành.
Ôm khư khư một hòm kinh truyện sũng ướt nước mưa, ngồi trong lòng một chiếc đò đầy đang tìm lại bến cũ, ông Đầu Xứ Em nghĩ xem giờ xuống tỉnh, nên trọ nhà ai cho tiện trong suốt một kì thi, vì nhà bà Phùng đã chật chỗ rồi.
Hoa hoè lả tả đánh rớt những cành vàng nâu cuối cùng lên bả vai bao nhiêu học trò các vùng đổ về tỉnh Nam. Năm nay nhà nước mở khoa thi, một khoa thi cuối cùng. Có những ông đồ già tóc râu đã ngả màu vì sự đùa nhả của công danh đánh lừa mình suốt mấy phen, chuyến này cũng cố chen ra, hồ vớt lấy một chút phấn hương cuối mùa của triều đình.
Trường Hà Nam hợp thi khoa Mậu Ngọ có ông Đầu Xứ Em dự, còn nhộn nhịp gấp mấy khoa Ất Mão trước.
Khoa Ất Mão trước, ông Ðầu Xứ Anh bị loại ngay vòng đầu, bay kì kinh nghĩa.
Khoa Mậu Ngọ này, ông Ðầu Xứ Anh nhất định không đi nữa, mặc dầu khoa này là khoa cuối cùng, sau này bãi hẳn sự thi cử. Ở vào buổi giao thời, nếu người ta còn cái lòng công danh, thi khoa thi Mậu Ngọ là một cơ hội cuối cùng. Từ Mậu Ngọ trở về sau, sẽ mở một thời khác, chữ Hán chỉ còn là một thứ xa xỉ phẩm trong cõi học vấn của một lớp người. Từ sau khoa này, cái lều, cái chõng chỉ còn là những vật cổ tích, mỗi khi nhắc nhỏm tới lại gợi lại một chút nhớ tiếc trong lòng một đám người mệt mỏi còn sống thêm một ngày là càng chỉ thêm một ngày bỡ ngỡ với phong hội mới.
Ông Đầu Xứ Anh nhất định không nộp quyển khoa này, tuy bao nhiêu người, từ Quan Đốc tỉnh cho đến anh em đồng song, thảy đều gởi hy vọng vào ông. Thơ phú làm rất nhanh ; sách nhớ có thể vạch ra từng chương, từng tiết một. Tính người lại điềm đạm đa hậu: ai ai đều khen nhà ông có đất học, rồi lại lấy làm lạ cho ông. Có một ông tam trường khoa trước lại ngờ rằng hay khoa này, tại nhà nước bắt đám sĩ tử phải chụp ảnh dán vào quyển nộp mà ông Đầu Xứ Anh không đi chăng? Có một hôm, ông cùng mấy người dạo chơi ở phố hàng Thao, nhận được tin này chính ông Đầu Xứ Anh đã kêu: “Từ trước tới nay, có bao giờ như thế. Bề trên đãi đám sĩ phu trong nước thật không ra cái gì.”
Hôm người em là ông Đầu Xứ Em xuôi tỉnh để sửa soạn đi thi, ông Đầu Xứ Anh đưa ra khỏi cái dốc đầu làng và lúc ông Đầu Xứ Em đã ngồi gọn trong con đò, ông dặn:
- Xuống tỉnh, nhà bà Phùng đã đông người ở trọ rồi, có phải ở chỗ khác, chú có ở đâu, cũng cứ lại đấy mà nhắn cho tôi rõ. Đến hôm các quan tiến trường, cữ hạ tuần tháng này, thể nào tôi cũng có mặt dưới tỉnh.
Vốn tính phong tình người em đứng dậy, làm chiềng con đò đầy, nói với lại:
- Cô Trinh, con gái út bà Phùng, hình như vẫn chưa lấy chồng phải không anh? Khoa Tý ngày trước anh cũng trọ ở đấy phải không? Đáp lại cái vui đùa của em muốn tiết nỗi hoan lạc ra ngoài một cách quá độ để trấn tĩnh cái rối ren trong bụng một người đi thi, ông Đầu Xứ Anh đã nghiêm nghị một cách bất đắc dĩ nói lảng ra ngoài câu hỏi:
- Cứ quanh quẩn ở phổ Cửa Trường ấy thôi nhé. Ði về nó tiện hơn. Ở đấy dễ gặp anh em các nơi đổ về.
Biết đấy là một cậu học trò xuống tỉnh thi, mấy đám hàng xáo người làng trên qua đây ghé đò xuôi chợ, không nhao nhao lên nữa như lúc mới nghiêng mạn đò vừa rồi. Họ ra vẻ nể nang, ngồi thu hình lại, quơ lại một góc mấy lũ tay nải và bị cói, cốt để dọn cho cái người có chữ kia một chỗ ngồi rộng rãi. Đáy con đó dính chắc vào đất sét lòng bến nông. Cô hàng gạo, buộc lại mũi khăn mỏ quạ, nhìn cậu khoá không mỏi mắt và mỗi lúc ngượng nghịu lại nhổ xuống đồng nước một bãi quết trầu. Gió đồng hôm nay không thổi. Bãi quết trầu đỏ lặng im giữa làn nước nhợt nhạt, rồi chậm chạp tan hòa vào nước đồng chiêm, mỗi khi nhìn rộng ra, chỉ rặt một màu bao la nhờ nhờ. Người lái đò mặc áo tơi phủ kín thân hình, chụp nón mê lấp cả mặt, đã rút đầu sào khỏi mặt nước. Con đò đầy cựa quậy, bốc nhẹ, rồi trườn mình ra xa. Trời bắt đầu nổi giỏ rét. Mưa thu lại lộp độp rớt xuống đám áo tơi nón lá của một chuyến đò đồng. Dưới gốc cây hoè già ở dốc đê làng, ông Đầu Xứ Anh vẫn chưa chịu trở gót.
Sớm tinh mơ ngày hai mươi nhăm tháng chín các quan làm lễ tiến trường tại khu trường thi Nam Ðịnh. Hai chiếc lọng vàng phủ nghiêng xuống lá cờ và tấm biển cỏ chữ “phụng chỉ” “khâm sai” và bốn chiếc lọng xanh ghé sát thấp tịt xuống cái đầu bạc của một ông đại khoa. Mùi nghi vệ mới phảng phất ít hôm trước thì sớm nay đã chan hòa nổi dậy trên một khoảnh đất mà mọi khi chỉ có hoang vu và bằng lặng.
Ánh sáng ban ngày đi vắng mãi tự những đâu mà đến bây giờ vẫn chưa thấy trở về. Từ hôm có gió vàng pha mùi cơn bấc đến nay, người ta chưa bao giờ thấy cái âm u tẻ lạnh đến nhường ấy. Mãi đến bây giờ là gần giữa giờ thìn rồi mà tối và sáng vẫn còn chưa phân tách hẳn ra. Người ta đứng bao quanh đàn cúng, vẫn chỉ thấy ánh sáng mấy chục ngọn nến bạch lạp rọi vào lớp da hoen ố vệt lửa cháy của đàn tế, trên đó phủ phục ba cỗ tam sinh còng queo: một con trâu và một con dê đen thui kèm một con lợn cạo trắng mở to cặp mắt chết.
Mặt đất sáng hơn nền trời. Cõi tự nhiên, một buổi sáng mùa thu có cuộc tế tiến trường, hình như đang lắng chờ một tai biến gì. Gió cũng không muốn thổi. Mấy ngọn sáp không lung lay, vệt khói xám nơi bình hương bốc lên thẳng thắn nơi bàn tam sinh.
Nền trời phương Đông đáng lẽ phải hửng lên để đón lấy chiêu dương. Thế mà ở đấy chỉ rặt một thứ mây đục đùn lên những hình Quỷ Ðông và, nơi phía Tây, một cái cầu vồng cụt một chân, tô lên trên tạo vật có tang ma, những màu xanh đỏ rực rỡ và rờn rợn. Trong cảnh âm dương hỗn loạn không chia biệt rõ, quan chánh chủ khảo trường Hà Nam hợp thi khoa Mậu Ngọ, đang tế cáo trời đất vua thần thánh và suýt soa khai xong tên, tuổi, quê, quán ngài khấn:
“…Báo oản giả, tiên nhập, báo ân giả, thứ nhập…”
Có lẽ đoạn khấn này là khoản chú trọng nhất của lễ tam sinh và đã được quỷ và thần chứng giám. Người lính tuần mặc ảo nẹp đỏ vừa được lệnh đổ chén rượu cúng xuống tàn lửa đống vàng đang hoá dở thì những đầu ngọn cỏ may im lìm nơi bãi trường thi đều rung lên một nhịp và theo một chiều. Người ta, hồi nãy sống một cơn mơ giữa khoảng ban ngày u uất, bây giờ trông thấy một cơn mơ đang tàn dần. Một thứ gió u hiển thổi thốc mãi vào bãi trường, nghe lào sào như có tiếng người chen chúc và chạy vào choán chỗ. Những cây nến cháy vạt ngọn bỗng tắt phụt hết.
Không gì xa vắng bằng cái động đậy trong đìu hiu của muộn loài.
Trời đất trong sáng lại lần lần.
Hai anh em ông Ðầu Xứ Ngoạt (lấy tên tục của làng nguyên quán là Cổ Nguyệt) lững thững ra về, ông Đầu Xứ Anh bụng buồn lắm mà không dám nói ra.
Ba năm trước, cũng ngày tế tiền trường năm Mão, cảnh trời đất cúng âm thầm gần bằng ngày này. Quan chánh chủ khảo khoa ấy, theo tục lệ quen của mỗi khoa thi, cũng cúng tam sinh khấn mời những oan hồn nên nhập vào trường trước hết mà báo oản trả thù. Rồi ông Ðầu Xứ vào trường, rồi oan hồn hiện lên ngay ở kì đệ nhất. Một người đàn bà trẻ, xoã tóc, ẵm con, hiện ngay lên dưới lều, ngay chỗ đầu chõng, kêu gào giữ rịt lấy tay không cho viết. Gào khóc chán, người đàn bà ấy lấy mớ tóc xoã quất vào mặt ông cứ bỏng rát lên và cười sằng sặc, lấy nghiên mực đổ vào quyển của ông. Lần ấy ông xin cánh quyển đến hai ba thứ. Vẫn người đàn bà quấy nhiễu không tha, để quyển ông cứ tì ố mãi. Lúc gần chiều, ông nổi một cơn đau bụng hoắc loạn, phải bỏ dở kì thi, nhờ người dìu về nhà trọ. Thế là ông bay ngay kì kinh nghĩa. Một người đầu xứ hay chữ và được Quan Đốc khen ngợi luôn mả hỏng ngay nhất trường thì có thảm thương không. Cũng may mà còn có người lấy được cái bản thảo giáp bài của ông đem về, ông còn giữ được đến giờ, nếu không thì nhục cho gia sáo biết là chừng nào. Ông cụ thân sinh ra ông, cụ Huấn là người nổi tiếng một vùng, ông xem lại bản giáp đưa cho các bạn đọc, ai cũng lấy làm tiếc. Hơi văn đi mạnh như thế có vào đến kì hội thi cũng cứ lọt, mọi người đều chắc lưỡi tiếc rẽ. Cái người bạn cùng một vi với ông, sau khi đem trả ông cái bản giáp đó, đã tìm đến phòng trọ đưa tạ ông ba chục quan tiền kẽm:
“Ðại huynh lúc không may lâm bệnh rời bãi trường, phải bỏ lại trên cỏ bản giáp bài kinh nghĩa. Là một người tự biết mình bất tài, tiểu đệ đã mạn phép hiền huynh điền vào quyển của đệ những lời gấm hoa đanh thép bị bỏ phí kia. Nay được vào kì đệ nhị, gọi là có món quà mọn gửi lại xin đại huynh nhận cho”.
Biết là có oan hồn hiện lên cố phá không cho mình mở mặt với thiên hạ, ông để tâm tra xét chuyện nhà. Thì ra, lúc sinh thời, cụ Huấn đẻ ra ông đã phạm vào một việc thất đức. Lúc sinh thời cụ Huấn, cụ đã mang lấy trách nhiệm tinh thần về cái chết của một người nàng hầu tài tình nổi tiếng một thời. Người thiếp đó, lúc tự ải, đã có mang được sáu bảy tháng. Cái âm oán ấy còn theo đuổi ông mãi, nếu ông cứ còn lều chiếu ở cửa trường thi. Đấy là lời người thiếp đó lúc ốp vào con đồng khi phụ lên. Nàng xưng là cô và gọi ông Đầu Xứ Anh là nó, cười sằng sặc và giọng nói the thé: “Nó còn đi thi, cô còn báo mãi. Các người hỏi cô muốn những gì ấy à! Cô muốn, cô muốn nó phạm huý, cho nó bị tội cả nhà kia. Nhưng nhà nó cũng cỏ một ông mãnh thiêng lắm, cô không tàn hại nó được như lòng cô muốn”. Con đồng chỉ lắc lư nói có thế, nếu có gặng hỏi thêm thi chỉ khóc hu hu rồi lại lăn ra mà cười như bị cù. Ông Đầu Xứ lạnh đến tuỷ xương sống trong người. Và lo nghĩ từ ấy.
Khoa thi này ông định không ra nữa để ông Đầu Xứ Em nộp quyển thôi, thử xem hồn oan có còn báo được nữa hay không. Ông tin ở học lực người em ruột, sao cũng lấy về cho làng Ngoạt, hên ra cũng được cái Tú Tài. Khoa cuối cùng, thêm phần luận quốc ngữ và phép tính và đo lường theo lối học mới, nhưng chú nó thông minh vốn thiên bẩm và gần đây tân thư và toàn pháp đọc rất nhiều, cũng không lấy gì làm ngại lắm. Nhưng mà phúc phận con người ta, ở một sĩ tử, biết sao mà định đoạt trước được.
Còn năm hôm nữa mới nhập trường. Mãi đến ngày sóc tháng mạng đông mới gọi tên bốn năm ngàn người vào kì đệ nhất. Cơm nhà trọ, luôn mấy ngày nay, bữa nào cũng hết một bình rượu.
Vào mấy ngày mong chờ hai anh em ông Đầu Xứ, những lúc trời ngớt hột mưa, thường nhẩn nha ở phổ hàng Giấy, chọn một thỏi mực, thử lông một cây bút thỏ hay là soi lên ánh nắng một giấy bản. Ông Đầu Xứ Anh cố quên chuyện cũ hết sức vui vẻ trong khi đi lục lọi giấy bút cho em ở các cửa hàng sách phố hàng Giấy. Những người văn nhân lượn lên lượn xuống nơi phố này nhiều đến nỗi không nhớ được mặt ví có gặp ngay lại một lần thứ nhì.
Cái cửa hàng sách gọn ghẽ, xinh xắn được nhiều thầy khoá lui tới nhất là cửa hàng cô Phương. Ðám học trò vào cửa hàng cô để mua cũng có, và để nghỉ chân vả giải trí cũng có. Cô Phương, ở phố hàng Giấy, ngày trước là một người đanh đá chua ngoa có tiếng. Có một lần một cậu học trò vào hàng cô chọn bút. Cô đưa bút Song Lan, Thanh Chi, Nhất Chi rồi Kiều Lan, rồi đến Lan Trúc; người thư sinh mặt trắng rút tháp bút, cho bút vào miệng, ấn toè đầu bút vào lòng bàn tay xoè, để thử soi lông bút lên ánh sáng có đến mấy mươi lần rồi mà cứ lắc đầu hoài, chê xấu. Anh chàng nhất định hỏi cho được cái thứ bút Tảo Thiên Quân mới chịu lấy. Thấy thầy khoá ăn mặc đồ vải xuềnh xoàng, cô Phương ra giọng bỉ thử: “Có Tảo Thiên Quân lông trắng, nhưng mà những hai quan một chiếc”. Tiếp cái nguýt dài của cô hàng sách càng ngồi giãi thẻ thêm ra, người thư sinh mặt trắng chỉ tay lên tít trên đầu tủ: “Phải, Tảo Thiên Quân lông trắng ; có còn thứ nào những năm sáu quan một quản, cô lấy cho tôi chọn”. Lúc nói câu này, thầy khoá cố dằn giọng vào chữ “những”, có ý bảo thầm cho nhà hàng biết rằng nên khinh người vừa vừa chứ. Cô Phương bẽn lẽn, nhưng cũng cố đứng dậy lấy thứ bút quý cất mãi trên cùng tột lớp tủ, đưa cho thầy khoá, chỉ đợi nếu anh chàng không mua nổi chiếc nào thì sẽ mắng một trận như tát nước vào mặt cho bõ ghét. Lấy luôn một lúc bốn chiếc Tảo Thiên Quân, trả tiền xong xuôi, người thư sinh mặt trắng dúng một ngòi bút vào một mảnh giấy nơi mặt hàng. Những giòng chữ viết rất tốt kia, sự thật, chỉ là một bài thơ chữ nói mát cô hàng có tính chỏng lỏn. Từ đấy, cô Phương đâm ra gờm những thầy khoá có tính ỡm ờ và trở nên rất ngoan ngoãn đối với bạn hàng, bất cứ là ai. Sau cô hỏi thêm, mới biết người thư sinh rất khó tính trong sự lựa bút và tác giả bài thơ bóng giỏ ấy là cậu Đầu Xứ Ngoạt. Năm Mão, phong thanh người thiếu niên tài hoa ấy thụ bệnh trong trường và bỏ dở khoa thi, cô Phương đã ra mặt ái ngại tiếc than với những người chung quanh. Trong tâm một cô hàng sách nhỏ phố hàng Giấy, đang nhú lên một cái mầm của yêu thương, gắn bó và đợi chờ.
Cho đến mãi Ngọ năm nay, ông Đầu Xứ Ngoạt mới trở lại cửa hàng cô Phương. Ông Ðầu Xứ Em còn lần lựa ngoài mặt hàng, chưa bước vào nhà.
Trên mấy tấm cửa lùa ngả xuống hai cái mễ gỗ, nhô hẳn ra vỉa hè, một cuốn Chinh phụ ngâm diễn nôm đã ghìm bước ông Đầu Xứ Em lại. Thấy có bóng khách vào hàng, cô Phương đặt cuốn truyện Lục Vân Tiên xuống, lấy móng tay đảnh dấu vào cái đoạn nàng Kim Liên đang “đẩy xe cho chị qua miền Hà Khê”, sắp cất tiếng chào khách, bỗng cồ ngờ ngợ, tủm tỉm muốn bật như cười. Cô nhìn không chớp mất, đôi má lúm đồng tiền phơn phớt nhuộm đào - cái màu hoa đào ngày năm nọ.
Ông Ðầu Xứ Anh hơi luống cuống, chưa biết hỏi món hàng gì thì may mắn quá, ông Ðầu Xứ Em đã tiến theo vào phá hộ cái yên lặng.
- Này anh, lấy một cuốn Chinh phụ bản nôm, về nhà trọ ta ngâm nga chơi cho nó hết mấy ngày đợi cái bảng nhập trường.
- Ờ thích được ngâm nga thì cứ lấy về. Có gì mà phải bàn bạc nữa.
Cô Phương hết nhìn người anh, lại nhìn sang người em. Cô đoán họ phải là anh em ruột thì mới giống nhau như tạc đến thế. Vả chăng hồi gần đây cô có nghe đến ông Đầu Xứ Anh cũng có một người em đỗ Ðầu Xứ và tài hoa đã làm trội cả một vùng tỉnh Nam. Ðúng là người mua truyện này đây. Chưa biết chuyện ông Đầu Xứ Anh không nộp quyển thi khoa này, cô Phương tự nói với mình: “Huynh đệ đồng khoa! Cải làng Cổ Nguyệt chuyến này tha hồ mà rước sách. Trong hai anh em, chả biết ai sẽ tủ tài, ai cử nhân. Mọi năm hai trường Hà Nội và Nam Định hợp lại, lấy sáu mươi
tư cử nhân. Năm nay khoa rốt, nhà nước đặc cách lấy những chín mươi tư cử nhân và cũng như mấy lần thi trước, cứ một cử nhân thì ba tú tài. Lọt sao được tay hai cậu Ðầu Xứ này.” Cô kéo cái ấm giỏ trong bục trong ra, giở nắp ấm thăm cái nòng chiếc ấm sứ, rót hai chén, cố hạ thấp vòi ấm xuống để nước không nổi bọt.
- Mời hai thầy quá bộ vào trong này xơi nước. Nước trà nụ ướp sói vừa pha đấy, nên mới dám mời hai ngài tân khoa.
Cô Phương cười, tự cho câu chúc sớm sủa đó lả có duyên lắm, hẳn là phải hay lắm và anh em ông Đầu Xứ Cổ Nguyệt phải thưởng thức. Thấy họ cứ đứng trân trân ra đấy, cô Phương thu dần nét mặt xởi lởi lại và ngồi ngẫm, càng nhận thấy cái vô duyên và vô lí của câu nói vừa rồi. Ai người ta chưa thi cử được một kì nào mà đã chúc với tụng. Cho đỡ ngượng, cô lại mời:
- Hai thầy xơi chén nước!
Ông Đầu Xứ Em chẳng biết cái gì cả, cầm chén, uống luôn, tưởng hễ cứ vào mua hàng người ta là mình có quyền được xơi nước mời. Khốn nạn, nào mà trước tới giờ anh có bao giờ nói chuyện cho nghe cái đoạn tình duyên thầm kín đã mấy năm nay giữa anh với cô hàng sách đâu mà biết. Ông Ðầu Xứ Em thấy anh còn trùng trình chưa chịu ngồi xuống cầm lấy một chén nước trà mà đầu lưỡi rất tinh của ông phải nhận là thơm ngon, ông càng chèo kéo ồn mãi lên.
Cô Phương cũng phải phì cười và làm cho ông Đầu Xứ Anh cười luôn thể. Con người nào đã biết e dè với cuộc sống, những lúc cảnh ngộ tinh thần sớm không cho mình phỉ sức hưởng thụ khi ở vào một cải tuổi ăn và ngủ đàng lẽ phải nhiều mỗi lần được vui cười trên mặt, thì cái cười ấy thật là thoả đáng, thật là đầy đủ và lại xinh đẹp là khác nữa. Nhân một cái vui tươi thế cho nét mặt nghiêm trang luôn luôn của ông Ðầu Xứ Anh, cô Phương nói một câu mà sự thân mật riêng tây đã không cần âm thầm nữa:
- Khoa Ngọ này là khoa cuối cùng, ông Đầu Xứ nên giữ mình làm trọng, chớ có đau bụng như kì năm Mão mà để thiệt thòi nhiều cho vùng Sơn Nam hạ lắm đấy, ông ạ.
Ðến chữ “ông ạ” ở cuối một câu nói, giọng rất thành thật cảm động, cô hàng sách có làm ra giọng bông lơn cho nó nhẹ bớt sự tha thiết của một câu nói đã lỡ nhời, đã thốt ra từ đáy một tấm lòng để đi sát vào một tấm lòng khác, bấy nay cũng vẫn chờ lúc được đãi đằng. Sự rất hữu tình mà cố làm ra vô tình bằng một cái giọng cố gò lấy, làm sao cho tránh khỏi sự nhận xét thông minh của ông Đầu Xứ Anh được. Ông biết lắm. Ông hiểu cô Phương để ý đến ông lắm. Không cần các bạn nói cho hay, không cần gặp gỡ, không cần âm tín tiêu hao, ba năm nay rồi, linh tính bảo cho ông biết thế. Nhưng từ ngày vấp ngay khoa thi đầu tiên, ở một kì đệ nhất, ông buồn uất vô hạn khi nhận thấy mình ra có còn lều chõng nữa cũng là chỉ đế lảm sống dậy, trong vòng oan trái, một cái oán cừu xưa cũ của ông cha di lại. Một cái oan hồn đã hiện lên để phá hại, đã ốp đồng vào miệng người sống để thốt ra toàn những lời hằn bọc, cái oan hồn ấy không chịu buông tha ai bao giờ. Hoá cho nên, rớt khoa Ất Mão ngay kì kinh nghĩa, ông nhận luôn cho nó là khoa cuối cùng, chẳng cần phải đợi đến khoa Mậu Ngọ cuối cùng này. Ngay dạo ấy, ông nói rất to rằng ông là thí sinh của một khoa thi thôi. Cô hàng sách không rõ, vẫn tưởng ông còn có bụng với sự lều chõng.
Ngắm kĩ cô Phương, ông thấy cái đẹp của cô già dặn hơn ngày năm trước. Muốn nói thêm vài ý nghĩ vui tươi nữa vào việc đánh giá cái đẹp, ông Đầu Xứ Anh bỗng ngừng lại. Bởi vì, – quái, sao mãi đến giờ ông mới nhớ nhận ra – khuôn mặt cô Phương cũng hao hao tợ như diện mạo người đàn bà ẵm con, xoã tóc ngồi rú kêu than nơi đầu chiếc chõng tre ở trong trường thi khoa nọ. Tự nhiên ông thấy cô Phương không hiền bậu nữa. Ông nghĩ đến những cái ghê sợ mà một cái sắc đẹp có thể giấu dưới nụ cười. Ông nghĩ đến những truyện ma quái lúc thay hình biến thể khi muốn hãm hại đám học trò. Ông nhớ lại cái cười gằn của oan hồn khi hiện thành người, quất đuôi tóc trần vào mặt ông cho ông hôn mê đi và cầm nghiên mực đổ chan hoà xuống quyển thi. Cái oan hồn ấy đã lên tiếng nói, thề quyết làm cho người
sống phải lụn bại mới nghe. Biết đến lúc nào cái người nàng hầu cụ Huấn mới nguôi giận và cái âm oán kia hết theo vết ông. Chuyện cũ của cha hồi sinh thời đi lại với người ta thật ông cũng chưa rõ hẳn đầu cuối như thế nào.
- Vâng, nhà có thứ mực Kiêu Kỵ đấy ạ, cô Phương nhanh nhảu trả lời ông Đầu Xứ Em.
Choàng tỉnh cơn suy nghĩ, ông đã vội bắt lấy việc mua mực khuyên em không nên lấy mực Kiêu Kỵ:
- Ði thi không ai dùng mực Kiêu Kỵ. Mực của xã Kiêu Kỵ chế rất tốt, chỉ hiềm mỗi khi viết xuống giấy, nó cắn bền chắc quá, khó tẩy đi lắm. Cô lấy cho mấy thoi Hoàng Tam Sương – vâng, nếu hết thứ chữ vàng rồi, cô cho thứ chữ bạc cũng được. Cái thứ mực hiệu Diệu Tự, “nhà ta” bán có được chạy lắm không hả cô?
Chà, người ăn nói sao mà xuôi tai dễ nghe đến thế. Cô Phương nhìn ông Đầu Xứ Anh, nhẩm trong óc mấy chữ “nhà ta”, tưởng đến cái ngây thơ của một đôi vợ chồng son kia trong lúc bù khú, chỉ mảnh trăng của cả thiên hạ mà nhận là của riêng của “nhà ta”, cô vui lòng quá, suýt quên cả việc soạn thoi mực cho khách.
- Cô cho tôi luôn thể ít chục tờ giấy lệnh nữa.
- Mấy chục tờ ạ?
- Cô đợi cho tôi tính xem dùng hết độ ngần nào thì không là thừa phí.
Làm ra bộ thông thạo thì ít. mà muốn tỏ sự thân mật thì nhiều – bao giờ được nên thân tình nữa nhỉ? – cô Phương co tay tính nhầm những cái gì, rồi cô ngấc đầu, vuốt mái tóc, nói với ông Đầu Xứ Em, giọng nhẻ nhót rất tự nhiên:
- Nộp ba quyển, kì đệ nhất, kinh nghĩa một quyền bảy tờ; kì đệ nhị thơ phú, một quyển sáu tờ và kì đệ tam, văn sách, một quyển mười bai tờ nữa, có dày lắm cũng chỉ đến mười bốn tờ là cùng. Ông định mua trữ giấy mang vào trường đề phòng những lúc phải cánh quyền hoặc đổi những trang hư hỏng, chỉ nên trữ lấy từng kì một.
Ông Đầu Xứ Anh vừa soi giấy lệnh vừa hỏi:
- Tại sao thế hở cô?
- Thưa, tại... tại là giấy chuyến này, thú thật với hai ông rằng không được mịn mặt lắm. Chuyến sau, có thuyền hàng phường neo về, thế nào cũng có giấy tốt hơn nhiều. Có lẽ kịp kì đệ nhị của các ông đấy. Để tôi xem nào.
Cô hàng sách, bán giấy bút cho học trò trường Nam đã mười năm cỏ lẻ, đã không phụ cái tiếng là một người thông thuộc những phong tục trường ốc. Cô Phương lại co tay tính nhẩm một hồi:
- Được rồi. Mồng một tháng mười là ngày vào kì đệ nhất. Có chóng lắm thì cũng phải hết cữ thượng tuần tháng mười mới có bảng vào kì đệ nhị. Phường giấy của tôi thế nào cũng có thuyền về bên trên mỏm sông trước ngày mồng mười. Đúng hôm tết trùng thập cúng cơm mời, các ông lại đây mua mở hàng cho kiện giấy lệnh Bưởi. Giờ các ông lấy tạm ít chục tờ dùng đở trong kì đệ nhất vậy.
Cô đếm giấy, thổi những tờ giấy chập đôi với cái nâng niu nhẹ nhàng của một người chị cả săn sóc đứa em thơ lúc mẹ già đi chợ chiều xa, chỉ có những người đàn bà đẹp và phúc hậu thì mới thổi được giấy như thế thôi. Cô đếm thành hai xấp, mỗi xấp đâu hai chục tờ. đùn một xấp vào phía ông Ðầu Xứ Em, còn cái xấp thứ nhì là lấy sau ở trong ruột đệp khác, cô trao tận tay ông Ðầu Xứ Anh, cặp mắt tình tứ linh động như muốn nhắc ông rằng cái xấp sau đây tốt hơn xấp trước và sự chênh lệch này trong lúc soạn giấy không phải là do ngẫu nhiên. Ra chiều tin chắc vào cái tài và cái may của hai anh em ông Đầu Xứ thi khoa này, cô hàng sách vẫn lấy cái cười duyên dọn đường cho một câu nói mà ở một cái miệng khác thì phải là thiếu lễ phép.
- Cánh quyền mà dùng bấy nhiêu giấy là nhiều quá lắm rồi đó. Phải thay quyển, đổi quyển đến quá ngữ giấy này, thì chỉ còn có ngồi mà lắng nghe ba hồi chín tiếng trống ngoại hạn...
Lúc ra về, ông Đầu Xứ Anh, trong một phút sầu hận, đã muốn trả lại cô Phương tập giấy, để thầm bảo cho cô hay rằng cô đã làm một việc thừa, riêng đối với ông, khoa Ngọ này ông có dự thi đâu.
…Mấy bữa nay mưa gió càng nhiều. Nước trên trút xuống, nước ở dưới dâng lên, người thu và cảnh ẩm sống trong một bầu không khí nồm lo lắng. Ngày ngày trăm nhà vùng Sơn Nam hạ lại nhận thêm lấy một cái tin đê vỡ tại đất Kinh Bắc.
Nằm nghe mưa rơi trên quán trọ xóm Cửa Trường, một đêm nguyệt tận năm Ngọ, từ tối đến giờ, ông Đầu Xứ Anh chỉ những hết lo xa rồi lại nghĩ gần. Trong một lúc mơ hoảng, ông lại trông thấy bóng cái người đàn bà mặc đồ trắng, xoã tóc, kiễng gót, thu một đứa trẻ con vào tà ào sổ gấu, đi tuột vào phía nhà cầu, ông ú ớ như người bị ma mộc đè, cố gắng mà không kiễng mình dậy được. Cái người đàn bà mặc đồ trắng, chân không sát đất, lại lẻn trở ra và, khi lướt qua mặt ông, cười gằn một tiếng, lấy tà áo quất vào má ông, buốt dức và giá lạnh như chưa bao giờ cảm thấy.
- Anh nói mê những gì thế?
Ông Đầu Xứ Em lác mãi, ông mới hoàn hồn, nhìn em một lúc lâu rồi hỏi:
- Chú đã soạn sửa lều chõng đủ rồi?
Trống đêm cuối thu và đông non điểm bốn tiếng đục. Uống hết một nai rượu để ngự hàn và khu phong mà nhà trọ đã dọn sẵn từ khuya, ông Đầu Xứ Anh bỏ thêm một đinh vàng lá vào tráp cua em:
- Khi nào thấy “khang khác” trong trường thi, chú đốt vàng cho nhiều vào. Thôi ta đi đi. Anh đưa chú vào đến cửa trường. Đưa tôi cải bộ gọng lều và chõng. Chú đeo lẩy ổng quyển và tráp. Ði đôi tất vào.
Ðêm mưa dầm vẫn tối như bưng lấy mắt. Hai cái tài hoa anh em kia, cộng lại không được bốn mươi nhăm tuổi đầu, bì bõm dắt nhau đi về phía cửa trường thi. Có tầm mưa gió và đi đêm như thế này, người ta mới thấy bước công danh là mệt và chán, giá cô Phương hàng giấy có đứng đây mà nhìn này! Ông Ðầu Xứ Anh bĩu môi. Trong tối tăm, tiếng thở dài người anh dẫn lối cho người em cứ lặng thinh bước từng bước một.
Bãi trường thi thấp hơn mặt nền tỉnh, nước mưa lụt dồn về, chôn ngập lút cả ngọn cỏ may. Đứng xa trông những cây đình liệu rọi trên bãi cỏ xâm xấp nước, người vô sự và không có chữ tưởng đâu như dân cả một làng nào đang đốt đuốc bắt ếch. Càng tiến gần lại trường, người ta có nhưng cảm tưởng rùng rợn như khi chịu bó tay đứng nhìn một đám cướp lớn bật hồng phá nhà lấy của trên xóm trên, trong những ngày lụt lội ở xứ bị thuỷ tai, quân cướp toàn đi bằng thuyền. Cái tiếng mắt nứa nổ to ở cây đình liệu cháy sắng, có khác gì cái tiếng đốt ống lệnh bật hồng của phường đạo tặc, lúc quân hồi vô lệnh.
…Ông Đề Điệu đã leo lên ghế chéo. Một người lính thể sát bắc ống loa, hô:
- Báo oán giả tiên nhập
- Báo ân giả thứ nhập
- Sĩ tử thứ thứ nh... ập.
Tiếng loa đồng xoáy sâu vào màn mưa lạnh. Ông Đầu Xứ Anh nghe tiếng hô, mặt nhợt nhạt, luôn luôn nhìn trộm em. Người em bây giờ chỉ là một thân cột cứng đờ mà sự thi cử đã mắc vào đấy biết đến bao nhiêu thứ múi dây lòng thòng: dây lều, dây chõng, dây buộc bộ gọng ống quyển... Cùng với ngàn ngàn người khác, hai anh em đứng nghểnh mãi cổ lên, kiễng mãi người lên như muốn nhìn rõ mặt người lại phòng xướng danh. Đã lâu chôn chân xuống bãi sũng nước, lòng dạ người người đều bàng hoàng. Bỗng ông Đầu Xứ Anh dun mạnh người em:
- Kìa... làng Cổ Nguyệt! Tên chú! Vào đi.
Trời sáng tỏ đã từ lâu. Cái hàng rào sĩ tử có dủ các hạng tuổi từ một cái đầu xanh mặt trắng cho đến một chòm tóc bạc, một lớp da mồi đã bị xé thủng. Ông Đầu Xứ Em lách mình qua rồi, nhưng lều chõng còn vưởng mắc nên lỗ thủng ấy chưa kịp hàn kín. Nhôn nhao một lúc lâu, cái bể người, đã lấp được chỗ trống của một con sông người tràn đi, lại bằng phẳng như cũ để chờ đợi một cải đổi dời khác. Ông Đầu Xứ Anh ra về, chỉ hận rằng lúc tới tấp, quên không dặn lại em nên đốt một lúc cho hết đinh vàng lá trong tráp nếu trong trường có thấy “cái gì khang khác”. Dọc đường, ông gặp một toán lính thanh khoá đội nón đĩa, nai nịt súng ống gọn ghẽ. Người ta bảo đấy là bọn lính nhà nước phái thêm vào trường giữ trật tự.
…Ông Ðầu Xứ Em dựng lều, dọn chỗ ngồi thi giữa sự dằn dỗi của trời đất. Mưa to gió lộng trên một trường thi. Cứ thế mãi mãi, cho đến qua giờ ngọ, cho đến quá giờ mùi. Vậy mà xưa nay người ta vẫn bảo mưa không quá ngọ gió không quả mùi. Sĩ tử khắp bốn vi giáp ất tả hữu, co ro trong lều dột, thật là coi tính mệnh mình không bằng một quyển thi chỉ luôn luôn muốn những chuyện tì ố. Chốc chốc cái loa đồng ngoài cửa trường lại kêu inh ỏi gọi các tư gia ai có thùng gỗ hay thùng sắt tây thì cho đem vào trường bán cho học trò kê quyển viết và độn thêm lên chõng ngồi.
Cái bản giáp bài viết xong lâu rồi mà quái lạ, hễ cứ động đặt ngòi bút lên mặt quyển là ông Đầu Xứ Em lại thấy đau bụng, đau quằn quại tựa chứng hoắc loạn cứ như dùi vào từng miếng tì vị. Ông cựa quậy nhiều lắm, vừa ôm bụng vừa giữ ống quyển. Cái chõng tre đặt trên bãi cỏ ngập, lủn xuống lần lần. Giữa hai cơn đau bụng, những lúc trời ngớt mưa, từ khu nhà thập đạo, vẳng về lều ông những tiếng kêu nài: “Lạy các quan, còn chỉ có một khoa thi này, xin các quan thương cho anh em đổi quyển. Trời mưa ướt lắm, anh em có muốn như thế làm gì...”
Thấy ở một vài lều chung quanh có khói lửa và tàn vàng bay ra, ông Đầu Xứ Em sực nhớ đến đinh vàng cất trong tráp, bèn lấy ra gỡ từng tờ một, xếp ngay ở đầu mép chõng, một tay chận cơn đau nơi bụng dưới, một tay châm mồi lửa bùi nhùi. Gió thổi vào đống lửa vàng hoá bùng bùng, lửa kêu vù vù và trong tiếng ngọn lửa reo, lại có tiếng người nói cười lanh lảnh. Khỏi bốc lên, tỏa xuống soai soải, Như những vệt nước thời gian trượt trên đầu ngọn tường xuống lần vách gạch những đền chùa xưa cũ có mốc vẽ hình, có rêu phong dấu. Những vờn khỏi nhẹ đã đổ xuống nhanh đổi màu
rất mau chóng. Trước mắt ông Đầu Xứ Em mê mệt và hoảng hốt, những vờn khỏi – thoảng mùi gây gây khét và tanh lợm – bỗng sẫm hẳn lại thành một mớ tóc xoã và mớ tóc u hiển không chờ đợi ấy đóng khung lấy một khuôn mặt người. Lửa vàng gần lụn, vụt bùng lên và tiếng cười lanh lảnh trở nên the thé, rồi nấc lên mãi. Trời đất tối sầm xuống. Ông Ðầu Xứ Em cảm thấy bãi trường là thừa lạnh lẽo. Trường thi âm u và không quạnh. Gió thổi bay quyển thi xuống làn cỏ dầm nước. Ông Đầu Xứ Em gắng nhoài người ra, muốn vớ lấy quyển bị gió thổi bốc khỏi mặt tráp. Nhưng ông hụt tay, chỉ đủ giữ mình khỏi ngã. Cơn đau bụng nổi lên dữ dội hơn hết những giờ phút vừa qua. Ông gục xuống tráp, thiếp dần.
Ông tỉnh giấc, thấy trong người nhẹ hẳn, tưởng chừng như cơn đau dữ dội ban nãy chỉ là một cơn ác mộng. Ông bỡ ngỡ, mất hết cả ý thức về thời gian và không gian. Ông ngơ ngác trước hoàng hôn. Từ một chòi nào, người ta đã điểm mau hồi trống ngoại hạn.
Ông Ðầu Xứ Anh ra đón ở cửa trường. Bỏ lại cả lều và chõng, cầm chỉ vỏn vẹn có một bản giáp ông Ðầu Xứ Em đã rời bước trong một giấc mơ.
Hai anh em gặp nhau, lẳng lặng không nói một câu nào suốt từ cửa trường về đến nhà trọ.
Bửa cơm ấy, tại nhà trọ bà Phùng có một người hỏng thi đã uống hết ba bình rượu cúc... vào một đêm dài nhất trong một đời người./.
Danh sách chương