“Bệ hạ muôn phần che chở sủng ái thần thiếp. Vốn dĩ, đó là diễm phúc của thần thiếp. Nhưng cuối cùng, phần phúc ấy lại hóa thành gông xiềng trói buộc cả kiếp này. Rốt cuộc, đó không phải là phúc, mà là họa, đại họa.” 

……….

Năm Thành Hóa thứ nhất, Vạn Trinh Nhi được sắc phong làm Hoàng quý phi, ban cho Trường An cung ở gần Càn Thanh cung nhất, đại lễ phong phi diễn ra trước cả phong hậu, lại còn vô cùng hoành tráng, khiến bao vị trong hậu cung kia cắn khăn ghen tị. 

Sau khi Vạn Trinh Nhi cùng Thành Hóa đế tế cáo Thái miếu, nàng đã thật sự trở thành một thành viên của hoàng tộc. 

Từ một cung nữ nhỏ bé, đi đến bước đường hôm nay, mọi thứ cứ phảng phất một cơn mơ. 

Những ngày tháng sau đó, Vạn hoàng quý phi vẫn luôn độc sủng hậu cung, hoàng thượng đêm đêm đều nghỉ lại cung Trường An, chẳng ngó ngàng tới ba ngàn giai lệ xuân sắc mỹ miều, chỉ dành ân sủng cho một nữ nhân hơn mình nhiều tuổi, khiến người ta không khỏi cảm thấy kỳ lạ, đồn đoán đủ loại lý do. 

Sách cũ chép lại, Chu thái hậu cũng lấy làm lạ về việc Vạn thị được thịnh sủng không ngớt, bèn hỏi:

“Nàng ấy có gì đẹp, mà nhận nhiều ân như thế?”

Hiến Tông hoàng đế đáp:

“Nhi thần có một bệnh, không có phi vuốt ve liền thấy bất an.”

Hậu thế dựa vào một đoạn ghi chép này, suy đoán rằng Vạn quý phi đắc sủng là nhờ vào kỹ xảo trong phòng khuê. Nếu Vạn Trinh Nhi biết được hậu thế nghĩ về mình như vậy, hẳn là sẽ dở khóc dở cười. May rằng nàng nằm im bất động chẳng khác gì cá chết, thế mà còn không xuống nổi giường, nếu nàng có cái gọi là “kỹ xảo”, nhất định là đã sớm chết trên long sàng. 

Lại nói, cũng chính vì người nào đó “miệt mài quá độ”, mà nàng mới xảy ra xung đột với Ngô hoàng hậu. 

Mọi chuyện phải kể từ cái ngày đại điển phong hậu. Hôm ấy, Thành Hóa đế lấy cớ chưa mãn tang tiên đế, liền giản lược đi một số lễ nghi. Mọi người đều ngầm hiểu, nếu thật sự vì tang kỳ chưa qua, tại sao phong phi lần trước chẳng giản lược đi? Rõ ràng, vị hoàng hậu này chưa ngồi vào phượng vị, đã mất đi thánh tâm. Ngô hoàng hậu vốn đang hân hoan vui mừng, nghe được tin này liền ấm ức trong lòng, cảm thấy nhất định là tiện tỳ họ Vạn kia ở trước mặt bệ hạ buông lời gièm pha.

Đến đêm hôm ấy, Vạn Trinh Nhi căn dặn A Liên:

“Bảo trù phòng không cần làm nhiều món cầu kỳ, hôm nay là ngày hoàng hậu mới được sắc phong, bệ hạ nhất định là nghỉ lại cung Khôn Ninh rồi.”

Nào ngờ, nàng vừa chuẩn bị lên giường đi ngủ, đã nghe tiếng cung nhân bên ngoài rối rít hành lễ. 

Vạn Trinh Nhi khẽ thở dài, đành ra ngoài nghênh đón hoàng thượng. Nàng chưa kịp khom người tham kiến bệ hạ, đã bị nhấc bổng lên. 

Nàng thoáng giật mình, khe khẽ kêu:

“Bệ hạ?”

Thần sắc của Thành Hóa đế lúc này có chút khác thường, trên trán lấm tấm mồ hôi, dường như đang rất kiềm chế. Y phất tay, khàn khàn bảo:

“Các ngươi lui ra ngoài đi.”

Các thái giám, cung nữ lui ra cửa, tuy không còn nhìn thấy được những gì xảy ra bên trong, nhưng thanh âm mê hồn của nương nương thì vẫn thấp thoáng nghe thấy, ai nấy đều đỏ mặt. Nếu nói Vạn quý phi có điểm gì quyến rũ nhất, thì đó hẳn là giọng nói êm dịu, ngọt ngào đặc trưng của nữ nhi phương Nam, bình thường nghe nàng nói chuyện đã khiến người khác mê mẩn, những lúc thế này lại càng say lòng người, chỉ cần thoáng nghe thấy cũng có thể làm cho tất cả nhộn nhạo trong lòng, đến cả thái giám còn mềm nhũn cả người, phải cố gắng niệm Thanh Tâm chú. 

Vạn Trinh Nhi bấy giờ cũng chẳng dễ chịu gì. Hôm nay Thành Hóa đế kích động lạ thuờng, sau khi hưởng xong “thánh ân” thì chân tay nàng đã bủn rủn, cả người mềm nhũn dựa vào lòng y, thì thào hỏi:

“Bệ hạ, tại sao hôm nay người…”

Nói được nửa câu, nàng lại thấy xấu hổ, không nói tiếp nữa. Nhưng tất nhiên, bấy nhiêu cũng đủ để Thành Hóa đế hiểu ý nàng, sắc mặt y thoáng trầm xuống, nói:

“Trong thức ăn ở Khôn Ninh cung có tẩm xuân dược.”

Vạn Trinh Nhi kinh ngạc, bảo:

“Không thể nào, tự ý bỏ thêm bất kỳ thứ gì vào ngự thiện đều là trọng tội, hoàng hậu không thể ngốc đến vậy.”

Lời vừa nói ra, nàng mới cảm thấy mình hơi quá phận. Chuyện này bệ hạ tất có phán đoán riêng, nàng không nên xen vào. 

Thành Hóa đế tất nhiên không hề trách nàng, sắc mặt cũng giãn ra một chút, bàn tay di chuyển từ từ đến nơi mềm mại kia của nàng, vừa thản nhiên chơi đùa, vừa nói:

“Ngô thị không có gan lớn như vậy. Chuyện này, e là vị ở cung Từ Ninh kia an bài…”

Sinh mẫu của y hẳn là đã nóng lòng muốn dùng đến quân cờ Ngô thị này.

Vạn Trinh Nhi nhìn bàn tay đang làm càn của ai kia, xấu hổ không thôi, nào còn để tâm đến chuyện ai đứng sau chuyện này. Nàng ra vẻ bất mãn, lẩm bẩm oán trách:

“Vậy tại sao bệ hạ không ở lại với hoàng hậu thanh xuân mỹ mạo, lại đến đây bắt nạt bà cô già như thần thiếp?”

Ngữ khí mang theo một chút làm nũng của nàng dường như khiến xuân dược còn sót lại trong người của Thành Hóa đế trỗi dậy. Y kề sát lại gần, khe khẽ nói:

“Nàng nói xem tại sao?”

Vạn nương nương quay lưng đi để tránh cho y trêu đùa nữa, đoạn mới đáp:

“Thần thiếp nào dám vọng đoán thánh ý.”

Những gì Thành Hóa đế làm vì nàng, nói không cảm động là giả. Nam nhân ai không tam thê tứ thiếp, ai không tham luyến mỹ mạo? Ngay cả phụ thân của nàng trước kia, chỉ là một quan huyện nho nhỏ, trong phủ cũng có vài tỳ thiếp. Tuy rằng không lung lay được vị trí của mẫu thân nàng, nhưng mà có nữ nhân nào mong muốn chia sẻ trượng phu với người khác? Thành Hóa đế là một quân vương, lại có thể độc sủng nàng lâu như thế, đã là vô cùng hiếm có, khiến Vạn Trinh Nhi cũng không khỏi cảm động. 

Chỉ là, nàng vẫn sợ hãi, không dám đặt quá nhiều tin tưởng vào một thứ bấp bênh vô thường như tình cảm, đặc biệt là tình cảm của đế vương. 

Có điều, lúc này, nàng vẫn như bao nữ nhân từ nhỏ đã nằm lòng tam tòng tứ đức khác, một khi đã là người của bệ hạ, thì phải luôn xem y như trời, một lòng quan tâm chăm sóc y, không được trái lời y, làm y phật ý. Chính vì vậy, trong hơn một năm này, nàng luôn cố gắng quên đi tình cảm thuở thiếu nữ trước đây, tự cảm thấy đó là thất tiết bất trung. Dù Thành Hoa đế đối với nàng đòi hỏi quá mức, nàng cũng không hề phản kháng, quả thực là y muốn bao nhiêu cũng cho bấy nhiêu. 

Có lẽ thứ khiến Thành Hóa đế yêu thương nàng dài lâu như vậy, chính là bởi y nhìn quen muôn kiểu nữ nhân thông minh khôn khéo, trong cả cái hậu cung rộng lớn ai ai cũng chỉ nghĩ đến việc lấy lòng y vì vinh hoa phú quý, chỉ có một mình nàng giống như một thê tử của nhà thường dân, ngày ngày vì y may áo khâu giày, đêm đêm thắp đèn chờ y trở về, khi y mệt mỏi thì lặng lẽ ở cạnh vỗ về, không mưu cầu vinh hoa, không đòi hỏi phú quý. Có thể nói, trong mắt y, các nữ nhân khác trong hậu cung đều là tần phi, chỉ duy nàng là thê tử. 

Thành Hóa đế âu yếm kéo nàng về phía mình, khẽ nói:

“Hoàng hậu nào có thanh âm động lòng người như Trinh Nhi. Ngoan, chốc nữa kêu to một chút cho trẫm nghe...”

Vạn nương nương xấu hổ liếc y một cái, thầm cảm khái trong lòng, tại sao đứa bé ngoan ngoãn năm ấy lớn lên lại trở nên biến thái như vậy? Nhưng rất nhanh, nàng đã không còn tâm trí để nghĩ về vấn đề này nữa. 

Có lẽ là do thuốc của Từ Ninh cung thái hậu quá lợi hại, Vạn Trinh Nhi đến sáng mới chợp mắt được một chút. Đến khi nàng thức dậy, trời cũng đã trưa. 

A Liên mang nước ấm vào cho nàng rửa mặt chải đầu, sau đó mới nói:

“Nương nương, sáng nay hoàng hậu có đến tìm nương nương.”

Vạn Trinh Nhi thoáng giật mình, hỏi:

“Tại sao ngươi không gọi bản cung dậy? Mau giúp bản cung đổi xiêm y, không nên để hoàng hậu chờ!”

A Liên ngập ngừng, đáp:

“Bẩm, bệ hạ đã căn dặn không được gọi nương nương dậy, chúng nô tỳ không dám kháng chỉ. Còn hoàng hậu... chờ người mãi không được, cuối cùng đã tức giận bỏ đi rồi...”

Vạn Trinh Nhi xoa xoa trán, cảm thấy lần này nàng thực sự đắc tội trực diện với hoàng hậu rồi. Đáng lý bây giờ nàng nên đến Khôn Ninh cung thỉnh tội một chuyến, nhưng lúc này cả người nàng vô lực, sợ rằng chưa đến nơi đã ngất dọc đường, cũng đành thôi. 

Tất cả đều do vị nào đó hại cả, nàng đã cầu xin dừng lại, mà y cứ muốn thêm một lần nữa, rồi lại một lần nữa...

Vạn nương nương hậm hực chọc chọc vào cái áo đang may dở dang mà ai cũng biết là may cho ai, trong bụng thầm oán trách vị ở Càn Thanh cung kia mấy trăm lần. 

A Liên lần đầu trông thấy nương nương cũng có mặt trẻ con như thế, liền ngẩn người nhìn.  

Có một loại tình cảm, người trong cuộc thì u mê, kẻ ngoài cuộc vừa thấy đã hiểu. 

Từ hôm đó, khắp Tử Cấm thành đều biết, trong ngày sắc phong tân hoàng hậu, bệ hạ đang đêm rời khỏi Khôn Ninh cung đi đến Trường An cung, bỏ mặc hoàng hậu một mình vò võ cô phòng. Sáng hôm sau, Hoàng quý phi không đến thỉnh an, hoàng hậu đích thân tới vấn tội, Vạn thị lại không thèm ra tiếp đón. Hoàng hậu tức giận, đi đến kể lể với hoàng thượng, nào ngờ y chỉ lạnh nhạt phán:

“Hoàng quý phi thân thể không khỏe, từ nay về sau miễn lệ thỉnh an mỗi sáng.”

Những ngày sau đó, Khôn Ninh cung chẳng khác nào lãnh cung, trong khi Trường An cung thì đêm đêm đều nghênh đón ngự giá. 

Ngô hoàng hậu tự phụ mình thanh xuân mỹ mạo, vậy mà lại thua một tiện tỳ vừa lớn tuổi vừa không tài không mạo, nay bản thân vì nàng ta mà trở thành trò cười cho khắp hậu cung, trong lòng vừa thẹn vừa tức. 

Nếu là người khác, hoàng hậu còn có thể tìm cách trừng trị cho thỏa lòng, nhưng mà Vạn thị này ngày ngày đều rúc ở trong cung, giả vờ hiền đức may áo khâu hài cho bệ hạ, nàng ta cũng không có cơ hội nào ra tay. 

Cứ thế qua đi một tháng, ngày nọ Vạn Trinh Nhi sai A Liên mang bát canh do chính tay nàng nấu đến Càn Thanh cung cho hoàng thượng, nào ngờ A Liên đi mãi không thấy trở về. Một lúc sau, Tiểu Lý Tử hớt hải chạy về báo tin cho nàng biết, A Liên đắc tội với hoàng hậu, đang chịu phạt. 

Vạn Trinh Nhi thầm đoán hoàng hậu rõ ràng là muốn mượn A Liên để trút giận. Nàng vốn không phải người nhân từ gì, chỉ là từng làm một cung nữ, nàng hiểu nỗi khổ bị giận chó đánh mèo của phận nô tỳ trong cung, cũng đồng cảm với A Liên, liền sai người chuẩn bị kiệu. 

Đang lúc A Liên bị hai cung nữ giữ lại vả miệng đến hai má sưng vù lên, một giọng lảnh lót của thái giám vang lên:

“Hoàng quý phi giá đáo!”

Hai cung nữ kia vừa nghe tới danh Hoàng quý phi, cả người thoáng run lên, nhưng lại sợ hoàng hậu trách phạt, không dám dừng tay. 

Vạn Trinh Nhi ung dung bước xuống kiệu, trên người vận một bộ cung trang màu tím nhạt, thoạt trông thì giản dị, nhưng Ngô hoàng hậu vừa nhìn đã biết, bộ cung trang kia được làm từ tơ tằm thượng hạng, trong cung cũng không có nhiều. Còn cây trâm từ phỉ thúy Tây Vực của nàng, cùng với viên ngọc trai trên cổ nàng nữa, tất cả đều là cống phẩm quý giá nhất. Hoàng thượng quả thật đã ban cho tiện tỳ này mọi thứ tốt nhất!

Vạn Trinh Nhi hướng về phía hai cung nữ kia, lớn tiếng bảo:

“Dừng tay!” 

Nói đoạn, nàng đến trước mặt hoàng hậu, khom người hành lễ một cái, sau đó nói:

“Hoàng hậu nương nương, chẳng hay cung nữ bên cạnh thần thiếp phạm phải tội gì, khiến nương nương phải nhọc lòng trách phạt?”

Giọng nàng mềm nhẹ vô cùng, phảng phất trong thanh âm ấy chứa đựng hết thảy ôn nhu của sông nước Giang Nam, nói chuyện mà như ngâm xướng, khiến người nghe cũng thấy thoải mái dễ chịu muôn phần. Bởi vì nàng ít khi ra khỏi tẩm cung, nhiều cung nhân chưa từng diện kiến, hôm nay thoạt nhìn dung mạo thì có phần thất vọng, nhưng mà vừa nghe giọng nói này, lập tức ngẩn ngơ. 

Tất nhiên, qua tai của Ngô hoàng hậu, lại trở thành cái giọng lẳng lơ của hồ ly tinh.

Nàng ta cười lạnh, bảo:

“Tiện tỳ này, thân là một tiện tỳ, nhưng lại không biết thân biết phận, ỷ sủng mà kiêu, dám bất kính với bản cung, thấy bản cung mà không quỳ hành lễ. Hoàng quý phi nói xem, thế là đáng tội gì?”

Lời này của nàng ta quả thật là chỉ cây dâu mắng cây hòe, ngụ ý mắng Vạn Trinh Nhi thân phận thấp kém mà gặp nàng ta không hành đại lễ, chỉ khom người chào một cái. 

Vạn Trinh Nhi vốn không thích gây sự với người khác, nhưng cũng không phải là hồng mềm cho ai muốn bắt nạt thì bắt nạt. Nàng khẽ cười một tiếng, nhẹ giọng nói:

“Thần thiếp dạy dỗ nô tỳ không tốt, quả thực là lỗi của thần thiếp. Nhưng mà bệ hạ ngày ngày đều giá lâm Trường An cung, thần thiếp thật sự không có thời gian giáo huấn bọn nô tỳ cho tốt, không thể sánh bằng nô tỳ trong Khôn Ninh cung, người người đều quy củ lễ nghi, hẳn hoàng hậu đã tốn không ít thời gian dạy dỗ, thật khiến thần thiếp lấy làm hổ thẹn.”

Ngô hoàng hậu biết nàng đang chế nhạo mình không được sủng ái, việc này vừa khéo cũng là nỗi đau trong lòng nàng ta, nhất thời nộ khí công tâm, giơ tay giáng cho Vạn Trinh Nhi một cái tát. 

Mọi người xung quanh đều nín thở. 

Ai ai cũng biết vị Hoàng quý phi này là bảo bối của bệ hạ, bình thường còn chưa từng thấy bệ hạ lớn tiếng mắng nàng một câu. Hôm này hoàng hậu tát Vạn nương nương, kết quả sẽ ra sao? Vạn Trinh Nhi đưa tay sờ sờ bên má bỏng rát của mình, vẫn bình thản cười một tiếng, nói:

“Đa tạ hoàng hậu đã dạy dỗ, thần thiếp, sẽ không quên ân tình này.”

Nói đoạn, nàng cúi người hành lễ một cái, sau đó bước lên kiệu, sai người đưa A Liên rời đi. 

Hoàng hậu vừa nãy là do nhất thời nóng giận, bấy giờ bình tĩnh lại mới cảm thấy lo lắng. Tiện tỳ kia như hồ ly tinh hóa kiếp, ả nói gì bệ hạ đều nghe, nếu ả đem chuyện này thêm bớt gièm pha với bệ hạ thì…

Chung ma ma ở bên cạnh hoàng hậu vội trấn an nàng ta, nói:

“Mặc kệ như thế nào, nương nương vẫn là hoàng hậu, giáo huấn một phi tần cũng là lẽ thường tình, hoàng thượng không thể trách phạt được.”

Hoàng hậu cũng cố trấn an mình như vậy, nhưng trong lòng chẳng rõ vì sao vẫn lo lắng bất an. 

Vạn Trinh Nhi trở về Trường An cung, cung nhân thấy dấu bàn tay trên má nàng, đều lấy làm kinh hãi. A Liên khóc nức nở, nói:

“Đều là lỗi của nô tỳ… Nô tỳ mang canh đến Càn Thanh cung, sau đó trở về, gặp phải hoàng hậu… Nô tỳ đã hành lễ chào, nhưng hoàng hậu vẫn một mực bảo là nô tỳ bất kính, sai người trừng phạt… Nô tỳ không cố ý liên lụy nương nương, hại nương nương chịu khổ…”

Vạn Trinh Nhi lắc lắc đầu, bảo:

“Chuyện này vốn là hoàng hậu muốn nhằm vào bản cung mà ra, không liên quan tới ngươi, ngươi lui xuống đi.”

Một cung nữ tiến tới, muốn giúp nàng bôi thuốc lên khuôn mặt, Vạn Trinh Nhi lại nói:

“Không cần.”

Dấu tay này, càng in rõ lại càng tốt. 

Như vậy, nàng mới có thể trả lại hoàng hậu “ân tình” này.

Hoàng hậu ngầm mắng nàng ỷ sủng mà kiêu, nếu nàng không ỷ sủng mà kiêu một lần, chẳng phải là chịu oan cái danh này rồi ư?

Rất nhanh, tin tức truyền đến Càn Thanh cung, Thành Hóa đế nghe bẩm báo rằng hoàng hậu đánh Vạn quý phi, lập tức di giá đến cung Trường An. 

Lúc y bước vào, chỉ thấy Vạn Trinh Nhi đang ngồi may áo như thường lệ, chỉ là bên má có một vết sưng đỏ. 

Trông thấy y, nàng vội vàng đứng dậy hành lễ, nói:

“Tham kiến bệ hạ.”

Thành Hóa đế lập tức đỡ nàng đứng dậy, quan sát vết đỏ trên má nàng, đáy mắt hiện lên vẻ đau lòng, dịu giọng hỏi:

“Còn đau hay không?”

Nàng khẽ gật gật đầu, sau đó nhẹ ngả đầu vào lòng y, hai tay vòng qua ôm lấy thắt lưng y, không nói một câu, lại khiến y càng đau lòng. Nàng ít khi tỏ vẻ nhõng nhẽo như thế, mỗi lần dùng tới chiêu này đều có ý đồ riêng, nhưng mà lần nào y cũng cam tâm tình nguyện cho nàng lợi dụng. 

“Được rồi, được rồi, ngồi dậy đi, trẫm bôi thuốc cho nàng.” Thành Hóa đế nhẹ nhàng vuốt tóc nàng, giọng mang vẻ dịu dàng hiếm thấy. 

Vạn Trinh Nhi vẫn cứ ôm chặt y không buông. Thành Hóa đế vỗ vỗ lưng nàng, đáy mắt thoáng qua một tia lạnh lẽo, nói:

“Còn ác hậu kia, trẫm sẽ trừng trị thích đáng.”

Lúc đó Vạn Trinh Nhi không ngờ rằng, “trừng trị” mà y nhắc tới kia, lại chính là phế hậu. 

Nàng quả thực muốn trả đũa hoàng hậu, nhưng chỉ nghĩ bệ hạ nhiều lắm là phạt nàng ta một tí, không ngờ y liền trực tiếp muốn phế hậu. 

Lúc nàng nghe tin hoàng thượng hạ chỉ phế hậu, trong lòng chợt chấn động mạnh.

Buổi tối, đợi Thành Hóa đế trở về, nàng lo lắng hỏi:

“Bệ hạ, đột nhiên phế hậu như vậy, bên phía thái hậu không sao chứ? Thế lực của Ngô gia có đáng ngại không? Thật ra… bệ hạ không cần vì thần thiếp mà làm đến mức ấy, thần thiếp…”

Thành Hóa đế ôm nàng vào lòng, chậm rãi nói:

“Trinh Nhi không cần lo lắng, trẫm tự có cách sắp xếp ổn thỏa. Có trẫm ở đây, không ai có thể bắt nạt nàng.”

Vạn Trinh Nhi cảm thấy hơi chột dạ, vùi mặt vào trong lòng của y, thỏ thẻ nói:

“Thật ra… Thần thiếp cũng có lỗi. Hôm đó, thần thiếp cũng không thấy đau mấy, chỉ là oán giận hoàng hậu, mới tỏ ra đau đớn để bệ hạ trách phạt nàng ấy. Trước đó… Thần thiếp cũng có buông lời chế giễu hoàng hậu…”

Nàng biết những chuyện này y đều tỏ tường cả, nếu một việc cỏn con như thế mà còn bị che mắt thì làm sao cai quản giang sơn? Cho nên, đã vậy, chi bằng nàng thành thật kể ra hết, còn hơn là khiến y cảm thấy mình bị qua mặt. 

Thành Hóa đế thấy nàng thành thật như vậy, chẳng những không có vẻ gì là chán ghét, mà còn thêm phần yêu thương, có chút buồn cười chọc chọc vào má nàng, nói: 

“Ái phi của trẫm thành thật lắm. Vậy nàng nói xem, nàng đã chế giễu Ngô thị như thế nào?”

Vạn Trinh Nhi lúc này vẫn còn tương đối đầy đặn, gò má vẫn là mềm mại non mịn như đậu phụ, vị bệ hạ nào đó chọc rất thích tay. Nàng như con mèo bị trêu đùa đến đỏ bừng mặt, lại quen phục tùng y, không dám đẩy y ra, chỉ biết yếu ớt nói:

“Bệ hạ, người lại không đứng đắn…”

“Được, trẫm sẽ đứng đắn một lần, đêm nay cho ái phi ở trên, được không?” Thành Hóa đế ái muội thì thầm bên tai nàng. 

Vạn nương nương bấy giờ thật sự xấu hổ đến mức muốn lao ra ngoài. Tất nhiên, nàng không thể nào thoát khỏi bàn tay của vị nào đó. 

Cuối cùng, kết quả như thế nào, chỉ có các cung nhân gác đêm bên ngoài biết rõ. 

Trong khi tất cả cung nữ khác đều cúi đầu giả vờ câm điếc, A Liên lại ngẩng mặt lên nhìn ánh trăng sáng vành vạnh, khẽ thở dài một tiếng. 

……….

Năm Thành Hóa thứ nhất, Ngô hoàng hậu chỉ tại vị được một tháng thì bị phế truất, đày vào lãnh cung. Ở trong triều, Ngô thượng thư bị điều tra ra tội tham ô, Thành Hóa đế ra lệnh tước mũ ô sa, tống giam vào thiên lao. Danh gia vọng tộc nhiều đời Ngô thị cuối cùng cũng suy sụp.

Bách quan nhìn thấy sự sụp đổ của Ngô thị, trong lòng đều kinh sợ. Ngô thị vốn là trợ thủ đắc lực của Chu quốc trượng – huynh trưởng của Chu thái hậu. Nay hoàng đế diệt trừ Ngô thị, chính là chém đi một cánh tay của ngoại thích, thế lực của Chu thái hậu lại thu hẹp đi một ít. 

Ở Từ Ninh cung, Chu thái hậu giận dữ đập vỡ ấm trà, cười lạnh một tiếng, nói:

“Được lắm, hoàng đế rốt cuộc trưởng thành rồi.”

Trong Tử Cấm thành này, đôi lúc, ngay cả giữa những người đáng lẽ nên thân thiết nhất trên đời, cuối cùng cũng chỉ còn lại đề phòng và tranh đấu. 

Khi Vạn Trinh Nhi nghe tin ấy, kỳ lạ là nàng chẳng vui, cũng chẳng buồn. Nếu nói nàng thương xót cho Ngô thị, thì quả thật nàng không nhân từ khoan dung đến thế. Nếu nói nàng vui mừng đắc ý, thì cùng là nữ nhân với nhau, ai cũng mệnh khổ như ai, cần gì phải cười cợt trên nỗi đau của người khác?

Sau khi Ngô hoàng hậu bị phế, Vương thị được vời vào cung, trở thành chủ nhân tiếp theo của Khôn Ninh cung. Vương hoàng hậu tính tình mềm mỏng, hòa nhã với mọi người, đối với Vạn Trinh Nhi muôn phần lễ độ, dù chỉ như một hoàng hậu bù nhìn, chưa từng được bệ hạ ân sủng, nàng ta vẫn không hề oán trách nửa lời. Mặc kệ là thật sự hay diễn kịch, Vạn Trinh Nhi cũng rất thích tính cách như Vương thị, an tĩnh lặng lẽ, không làm người ta cảm thấy đau đầu. 

Cứ thế, Vạn Trinh Nhi vẫn tiếp tục sống cuộc sống bình thản của mình, ngày ngày chỉ chú tâm đến kim chỉ thêu thùa, không màng ngoài kia ai đấu với ai.

Xuân hạ thu đông luân chuyển, thoáng chốc một năm đầy biến động đã trôi qua. Năm Thành Hóa thứ hai chầm chậm kéo đến. Vạn Trinh Nhi không bao giờ ngờ rằng, đây lại là năm đen tối nhất trong cuộc đời của nàng. 

Tang kỳ của tiên đế cũng qua một năm, lấy lý do hậu cung còn quá trống trải, Chu thái hậu ban lệnh tuyển tú. Hàng trăm thiếu nữ xinh đẹp đồng loạt nhập cung. Ngày hôm ấy, Vạn Trinh Nhi đứng trên lầu cao, nhìn xuống một vườn xuân sắc, chợt cảm thấy mình thật sự đã già rồi.

Tuyển tú kết thúc, trong cung nhiều thêm vài vị tần ngự, không có tú nữ nào được phong phi, nữ nhân trong hậu cung đồng loạt thở phào nhẹ nhõm. Tần ngự, chỉ là cách gọi hoa mỹ, kỳ thực vẫn chẳng khác gì nô tỳ, không hề có sức đe dọa với địa vị của họ.

Có điều, nghe nói hoàng thượng rất chú ý tới một tú nữ, nàng này thông minh lanh lợi, dám ngang nhiên tranh luận với bệ hạ mà chẳng hề run sợ. Mọi người cứ nghĩ nàng ta khi quân phạm thượng như thế, hẳn sẽ bị chém đầu, nào ngờ cuối cùng lại được bệ hạ yêu thích phong làm quý nhân. 

Vạn Trinh Nhi có loáng thoáng nghe qua về vị quý nhân này, nhưng nàng chẳng mấy chú tâm. Có lẽ nàng sống trong an nhàn lâu quá, liền bắt đầu tin tưởng, địa vị của mình trong lòng Thành Hóa đế vô cùng vững chắc, không có gì đáng lo ngại. 

Tin tưởng, là nguồn căn của mọi thất vọng. 

Sau ngần ấy thời gian độc sủng hậu cung, cuối cùng Vạn nương nương cũng có hỉ mạch. Bởi vì đây là đứa con đầu tiên của bệ hạ, cả hậu cung chấn động, Tiền thái hậu cũng rất quan tâm hỏi han. Vạn Trinh Nhi rất vui mừng, không phải vì tham luyến cái ngôi vị thái hậu trong tương lai, mà là thật sự hạnh phúc khi biết tin có một sinh mạng mới đang hình thành trong bụng mình. 

Nhưng mà, Thành Hóa đế lại chẳng có vẻ gì vui mừng. 

Ngày thứ hai sau khi thái y chẩn ra hỉ mạch, bệ hạ không đến Trường An cung. 

Vạn Trinh Nhi nghĩ rằng y có việc bận gì đó thế nên đến muộn. Nàng bảo A Liên hâm nóng lại thức ăn, sau đó tiếp tục chờ. Cứ như vậy, nàng chờ suốt một đêm. Đến sáng, Tiểu Lý Tử len lén bẩm báo cho nàng hay, đêm qua bệ hạ lật thẻ bài thị tẩm Lâm quý nhân. 

Vạn Trinh Nhi nhất thời không nhớ ra Lâm quý nhân là ai, phải nhờ Tiểu Lý Tử nhắc lại, nàng mới mơ hồ nhớ rằng mình từng nghe qua tên của nàng này. 

Tiểu Lý Tử sợ rằng nàng sẽ tức giận đi đến Ngọc Vũ hiên làm khó Lâm quý nhân, nào ngờ nàng chỉ bình thản bảo A Liên mang thức ăn xuống, sau đó đi nghỉ ngơi một lúc. Các cung nữ còn lo lắng Hoàng quý phi sẽ buồn bực chuyện Lâm quý nhân, nào ngờ thấy nàng thản nhiên như vậy, trong lòng đều lấy làm lạ. 

Ngay sáng hôm đó, Càn Thanh cung cho người đến lấy đi đỉnh hương trong tẩm cung của nàng, nói rằng bệ hạ có chỉ ý thu hồi để ban cho Lâm quý nhân. 

Đỉnh hương này trước kia là do nàng thường bị mất ngủ, Thành Hóa đế mới đặt nó ở đây, bảo rằng có thể giúp nàng an thần, tĩnh tâm.

Vạn Trinh Nhi cũng không ngăn cản cung nhân ở cung Càn Thanh, chỉ lặng lẽ ngồi nhìn bọn họ mang nó đi. 

A Liên có chút bức xúc, Vạn Trinh Nhi chỉ khẽ mỉm cười, bảo:

“Vốn dĩ cũng không phải của bản cung, giữ lại chỉ vô ích.”

Một ngày, rồi hai ngày sau đó, bệ hạ đều không đến Trường An cung. Vạn Trinh Nhi vẫn theo thói quen, bảo trù phòng làm thức ăn đủ cho hai người. Đến cuối cùng, vẫn chỉ có một mình nàng dùng thiện, rồi lại ngồi bên khung cửa chờ đợi. Tất nhiên, người mà nàng chờ đợi không bao giờ đến.

Mọi người đều biết, Hoàng quý phi thất sủng rồi. Xưa nay, phi tần mang thai không được sủng hạnh là chuyện bình thường, nhưng Thành Hóa đế ngay cả một câu hỏi han đến sức khỏe nàng cũng không có, gần như quên đi sự tồn tại của nàng, thì quả là kỳ lạ. Nữ nhân trong hậu cung đáng lẽ nên vì chuyện này mà vui mừng, nhưng bọn họ chẳng hề vui vẻ hơn tí nào, bởi Vạn thị vừa thất sủng, lại xuất hiện một Lâm thị tài mạo vẹn toàn, rất được thánh sủng, so với Vạn thị còn nguy hiểm vạn phần. 

Vạn Trinh Nhi vẫn không tỏ vẻ gì là đau buồn hay ghen tức, mỗi ngày nàng vẫn làm những việc mình cần làm: may xiêm y, khâu giày, làm điểm tâm sai người mang đến Càn Thanh cung. Tất cả mọi thứ đều y như trước đây, không nhiều hơn, cũng không ít đi. 

Một ngày nọ, A Liên dìu nàng ra Ngự Hoa viên tản bộ một chút, nghe nói thường xuyên vận động thì khi sinh cũng dễ dàng hơn, thế nên nàng không đi kiệu. Đi được một quãng, nàng nghe có tiếng cười nói vọng đến, dường như là tiếng của hoàng thượng. A Liên nhìn nàng như hỏi ý, nàng gật đầu nhẹ, bảo:

“Chúng ta đến đó hành lễ rồi hãy rời đi.”

Đi đến gần, đúng lúc cả hai nghe được Thành Hóa đế cười rất vui vẻ, tán dương:

“Linh nhi quả thực là xuất khẩu thành thơ, bài thơ này thật là tuyệt diệu, rất có ý vị! Thư pháp của nàng lại vừa uyển chuyển vừa hữu thần, so trong nữ giới cũng khó ai bì kịp.”

Có một giọng nữ trong như chuông bạc đáp lại:

“Ta làm sao so được Hoàng quý phi chứ!”

Vạn Trinh Nhi hơi giật mình. Xưng “ta” với đế vương là một sự bất kính, người này thật sự không sợ chết sao?

Chỉ nghe Thành Hóa đế bật cười, bảo:

“Hoàng quý phi của trẫm chỉ giỏi khâu vá thêu thùa, đến cả chữ còn chưa thể nhận mặt hết, nói gì đến thi từ thư pháp?”

Bàn tay của Vạn Trinh Nhi khẽ run lên một chút.

Kể ra thì lúc nhỏ nàng vẫn là một tiểu thư, không lý nào lại không học chữ. Chỉ là gia biến xảy ra khi nàng còn quá nhỏ, phụ thân chưa kịp dạy cho nàng được bao nhiêu thì đã phải chia lìa. Từ đó nàng vào cung, cũng không còn thời gian và tâm trí mà luyện viết. Sau này đến Nghi Vương phủ, Chu Kiến Thâm muốn dạy cho nàng, nhưng nàng lại cảm thấy dành ra hàng giờ luyện chữ thật là lãng phí, trong thời gian đó nàng có thể tranh thủ thêu thêm vài món đồ, bán đi cũng được ít tiền. 

Vạn Trinh Nhi nào ngờ rằng chính vì như vậy mà nàng lại trở thành chủ đề cho người ta cười cợt. 

Lúc này hai người đã đến gần lương đình hơn một chút, thấp thoáng nhìn thấy hai bóng người trong kia, nam tuấn mỹ, nữ yêu kiều, cùng tựa vào nhau viết chữ vẽ tranh, ngâm thơ đối chữ. Quả là tiên đồng ngọc nữ như trong thoại bản thường kể. Nhìn kỹ lại, thì thấy trên vai nàng kia còn đang khoác một chiếc áo choàng rộng lớn. Chiếc áo choàng này, từng đường kim mũi chỉ đều do chính tay Vạn Trinh Nhi may, mất mấy ngày mới làm xong. 

“A Liên, chúng ta đi thôi.” Nàng khẽ gọi A Liên, sau đó lặng lẽ quay lưng bước đi. 

Trên đường đi, A Liên an ủi:

“Nương nương đừng buồn, đợi người sinh ra tiểu hoàng tử, tất sẽ lại đắc sủng.”

Vạn Trinh Nhi lắc lắc đầu, mỉm cười, nói:

“Bản cung từ sớm đã đoán trước có ngày này, sao lại phải buồn chứ?”

Nàng nói như vậy, nhưng sáng hôm sau, A Liên thấy gối của nương nương có một vệt ướt đẫm, đôi mắt của nàng cũng sưng húp lên. 

Vạn Trinh Nhi cười cười, bảo:

“Tối qua có hạt bụi bay vào mắt bản cung, cũng may đã lấy ra được.”

Từ hôm đó, nàng không căn dặn A Liên chuẩn bị hai phần cơm tối nữa, cũng không thức chờ đợi nữa. Trường An cung giờ đây tắt đèn rất sớm. Mỗi ngày, nàng cũng không còn may xiêm y cho bệ hạ, mà chuyên tâm may đồ cho đứa bé trong bụng. Mọi người đều mong nó là hoàng tử, nàng lại hi vọng là một tiểu công chúa, bình bình an an mà lớn lên, không cần phải tranh giành với ai, cũng không cần sợ bị người ta ám hại. 

Thời gian thấm thoắt trôi, Vạn Trinh Nhi cũng đã mang thai được tám tháng, chỉ còn một tháng nữa là sinh. 

Mùa đông lại đến. Tuy nàng đã thất sủng, nhưng dù gì vẫn mang long thai, phong hiệu Hoàng quý phi vẫn còn đó, không ai dám lơ là tắc trách, trong cung vẫn ấm áp như xuân. Một ngày nọ, khi nàng đang nằm ngủ, mơ màng mở mắt ra, chỉ thấy một mũi dao sáng loáng trước mặt. Nàng hốt hoảng, vội tránh sang một bên, may mắn tránh thoát một dao. Vạn Trinh Nhi lớn tiếng tri hô, thị vệ bên ngoài nhanh như chớp xông vào, bắt lấy kẻ vừa muốn thích sát nàng.

Điều mà nàng không ngờ nhất chính là, kẻ ấy lại là A Liên. 

“Bản cung đối với ngươi không tệ, tại sao ngươi lại muốn giết ta?” Vạn Trinh Nhi lạnh giọng hỏi. 

A Liên bật cười lớn, chỉ tay vào mặt nàng, nói:

“Câm miệng! Ngươi đừng ở đây giả nhân giả nghĩa, ngươi là một tiện phụ tham vinh hoa phú quý! Ta chỉ hận không thể giết chết ngươi để tế Cầm ca ca!”

Vạn Trinh Nhi bàng hoàng, vội hỏi lại:

“Ngươi nói gì? Cái gì là tế Cầm ca ca? Cầm Lang không phải đang sống rất tốt ở Tô thành sao? Ai cho phép ngươi trù rủa huynh ấy!”

A Liên lại bật cười lớn, vừa cười vừa khóc nói:

“Cầm ca ca chết rồi! Chết rồi! Hôm nay là ngày giỗ của huynh ấy! Đều là tại ngươi! Huynh ấy bảo, ngươi là người duy nhất có thể hiểu tiếng đàn của huynh ấy. Trong tiệc tất niên, khi mọi người nghe huynh ấy đàn và vui vẻ cười nói, chỉ có một mình ngươi rơi lệ… Năm đó ta đã bảo huynh ấy đừng quay lại Tử Cấm thành này, huynh ấy cứ một mực muốn trở lại. Huynh ấy nói, huynh ấy không thể nhẫn tâm bỏ ngươi ở lại nơi lạnh lẽo này một mình… Kết quả, ngươi vì tham vinh hoa phú quý mà cam tâm làm món đồ chơi cho thái tử, huynh ấy còn luôn bảo ngươi chỉ là thân bất do kỷ! Ha ha! Thân bất do kỷ ư? Tiếc rằng Cầm ca ca không có ở đây, không thấy được ngươi cùng cẩu hoàng đế kia ân ân ái ái ra sao, không nghe được âm thanh lẳng lơ của ngươi dưới thân của cẩu hoàng đế!” 

Vạn Trinh Nhi run run hỏi:

“Cầm Lang… chết như thế nào? Rõ ràng bệ hạ đã hứa với ta thả huynh ấy về quê…”

A Liên rưng rưng nước mắt, nói:

“Đúng vậy, hắn thật sự đã thả Cầm ca ca. Nhưng mà… Trước lúc thả huynh ấy đi, hắn đã sai người đập nát hết các đốt ngón tay của huynh ấy. Ngươi nói xem, một cầm sư bị phế đi đôi bàn tay, đó là việc tàn nhẫn như thế nào? Đối với Cầm ca ca mà nói, điều đó còn đau khổ hơn là chết… Huynh ấy về tới Tô Châu, chưa được bao lâu thì cũng qua đời. Trước khi chết, Cầm ca ca còn gửi gắm ta vào trong cung này, mong ta giúp huynh ấy chăm sóc ngươi, huynh ấy nói, ngươi ở trong cung cô đơn lắm… Quả báo! Chính là quả báo! Ngươi bạc tình phụ nghĩa với Cầm ca ca, cuối cùng lại bị cẩu hoàng đế vứt bỏ! Đáng lắm! Đáng lắm!” 

A Liên nói xong, bỗng nhiên trợn trừng mắt, ngã gục xuống đất, từ khóe miệng chảy ra rất nhiều máu. Hóa ra, nàng ta vừa dứt lời thì đã cắn lưỡi tự sát.

Vạn Trinh Nhi lẳng lặng bảo cung nhân mang A Liên ra ngoài an táng, bản thân nàng thì ngẩn người ngồi một mình trong tẩm cung. Nàng nghĩ tới rất nhiều chuyện đã xảy ra trong hơn mười năm nay, nghĩ tới cái ngày đầu tiên gặp Cầm Lang, nghĩ tới nụ cười ấm áp của chàng, lúc chàng chia phần cơm cho nàng, khi chàng tặng cho nàng cây trâm bạc…

Mọi thứ ngỡ như mới diễn ra trước mắt, vậy mà giờ đây, nước vẫn chảy, hoa vẫn thơm, bốn mùa xuân hạ thu đông vẫn luân chuyển, chỉ là trên thế gian này, đã chẳng còn chàng trai Cầm Lang dịu dàng như nước nữa. 

Nàng lồm cồm bò dậy, muốn chuẩn bị một phần đồ cúng để bái tế chàng. Nhưng mà, lại chợt nhớ ra, trong Tử Cầm thành, đốt đồ cúng tế người chết là trù rủa hoàng đế, phải mang trọng tội. 

Chàng vì nàng mà chết, đến chết vẫn tin tưởng nàng, lo lắng cho nàng. Vậy mà, đến cả bái tế chàng một lần, nàng cũng không thể.

Vạn Trinh Nhi gục đầu lên gối, bật khóc nức nở. 

Sau đó, bụng của nàng chợt đau dữ dội. Nàng muốn đứng dậy, nhưng không còn sức lực. Nàng muốn lên tiếng gọi người vào, nhưng chưa kịp nói gì, đã ngất lịm đi.

Đến khi Vạn Trinh Nhi tỉnh dậy, đã thấy mình đang nằm trên giường, bụng vẫn đau quằn quại. Có một bóng người ngồi bên cạnh nàng, luôn nắm chặt lấy tay nàng. 

“Bệ hạ, xin người ra ngoài trước, chớ để lây nhiễm xú uế…” Lão ma ma nơm nớp lo sợ, run rẩy nói. 

Chỉ nghe người kia quát một tiếng:

“Câm miệng! Mau chuyên tâm giúp Hoàng quý phi thuận lợi sinh, nếu nàng có chuyện gì, tất cả các ngươi đều phải chôn cùng!”

Là Chu Kiến Thâm. 

Vạn Trinh Nhi mở mắt ra, cố hết sức muốn rút tay ra khỏi tay y, nhưng vô ích. 

Thành Hóa đế phát hiện ra nàng đã tỉnh, vui mừng càng nắm chặt tay nàng, dịu dàng trấn an:

“Trinh Nhi đừng lo, nàng sẽ không sao đâu, không sao đâu… Cố chịu một chút thôi, một chút thôi là tốt rồi…”

Vạn Trinh Nhi phảng phất không nghe thấy gì cả, cứ mở to mắt nhìn y. Trong ánh mắt, không còn yêu thương, không còn hi vọng. 

Sau một ngày đau đến chết đi sống lại, rốt cuộc nàng đã sinh hạ được hoàng trưởng tử. 

Thành Hóa đế vui mừng ôm chầm lầy nàng, hạ chỉ sắc phong hoàng trưởng tử làm thái tử. 

Thái y đứng bên cạnh xanh mặt nhìn bệ hạ, muốn nói gì đó, lại bắt gặp ánh mắt lạnh băng của y, cuối cùng cúi đầu lui ra.

Vạn Trinh Nhi chẳng quan tâm đến họ. Nàng run run ôm con trai của mình lên. Tiểu thái tử quá nhỏ, tuy rằng nàng chưa sinh con lần nào, nhưng cũng mơ hồ cảm thấy con trai mình dường như có chút bé hơn kích thước của trẻ mới sinh thông thường. Ôm đứa con bé bỏng trong ngực, nghe hơi thở mỏng manh của nó, nàng đau lòng đến rơi lệ. 

Những ngày sau đó, Thành Hóa đế luôn túc trực ở bên cạnh mẹ con nàng, nhưng nàng chẳng ngó ngàng, cũng chẳng nói với y một câu nào. Thậm chí, nàng còn không muốn nhìn thấy y.

Trong thời gian ấy, ngoài kia, nghe nói Chu quốc trượng đã rơi đài. Nghe nói, thế lực ngoại thích của Chu thái hậu hoàn toàn sụp đổ. Nghe nói, Lâm quý nhân khi quân phạm thượng, được ban cho ba thước lụa trắng, chết đi cũng chỉ được mai táng như một cung nữ. 

Nhưng mà, Vạn Trinh Nhi đã chẳng còn quan tâm đến bất kỳ điều gì, ngoài con trai của nàng. 

Nàng luôn rất lo lắng, tại sao con trai của mình lại yếu ớt như vậy, một ngày cũng chẳng uống được bao nhiêu sữa, cứ ngủ li bì.

Đến một ngày nọ, trong tiết trời đông rét buốt, cuối cùng, con trai của nàng đã ngủ và vĩnh viễn không thức dậy nữa. 

Nàng vẫn ôm con vào lòng, chờ đợi nó thức dậy. Nàng chờ, chờ mãi, chờ mãi. 

Cho đến khi Thành Hóa đế ngồi xuống bên cạnh nàng, nhẹ giọng nói:

“Trinh Nhi, nàng hãy trao hoàng nhi cho trẫm, để trẫm đưa nó nhập Hoàng lăng yên nghỉ, được không?”

Nàng vội ghì chặt đứa bé vào lòng, hét toáng lên:

“Không, không! Không ai được động vào con của ta! Con của ta chưa chết, nó chỉ đang ngủ thôi, đang ngủ thôi…”

Nói đoạn, nàng ôm cái xác lạnh ngắt của con trai, bật khóc thảm thiết. 

Cuối cùng, bọn họ vẫn đoạt đi đứa bé, đặt nó vào quan tài, mai táng ở Hoàng lăng. Ngày tang lễ, Vạn Trinh Nhi không còn khóc nữa. Vì nước mắt đều khóc cạn rồi. 

Hôm đó, nàng đang ngẩn ngơ ngồi trước bài vị của con mình, thì nghe giọng thái giám vang lên:

“Thái hậu giá đáo!”

Nàng ngây người ra, chẳng thiết hành lễ. Nàng nghĩ, nếu thái hậu tức giận sau đó ban chết cho nàng, thì biết đâu lại là may mắn của nàng, để nàng sớm ngày đoàn tụ cùng con trai. 

Nhưng ngoài dự đoán của nàng, Chu thái hậu lại chẳng hề nổi giận với nàng. Bà ta chỉ tiến tới gần, kề sát vào tai nàng, nói:

“Ngươi có biết vì sao con trai của ngươi lại chết yểu không? Tất cả đều là do ngươi! Lúc đó ai gia cương quyết không cho phép hoàng thượng giữ ngươi lại, bởi vì thiên tử tương lai của Đại Minh ta không thể nào chui ra từ bụng một nô tỳ! Ngươi đoán xem, để giữ ngươi ở bên mình, hoàng thượng đã làm gì? Còn nhớ đỉnh hương an thần kia không? Đối với nam tử mà nói, hương liệu trong đó quả thực có tác dụng an thần. Nhưng mà…”

Chu thái hậu dừng lại một lúc, hài lòng nhìn khuôn mặt của nàng trắng bệch đi, sau đó mới nói tiếp:

“Nhưng mà, đối với nữ tử, thì là một loại độc dược có thể khiến cả đời tuyệt tử. Tuy rằng không biết vì sao ngươi còn có thể hoài thai, nhưng cuối cùng, quả nhiên đứa bé vẫn chết yểu. Đứa bé đó phải chết, chính là vì nó có một mẫu thân thấp kém nhưng lại không biết thân phận như ngươi! Chính là ngươi hại chết con của mình!”

Hóa ra là như vậy. Cầm Lang chết là do nàng. Con trai chết, cũng là do nàng. Nàng là nguồn căn của tất cả mọi bi kịch này.

Vậy… Tại sao nàng còn chưa chết đi?

Vạn Trinh Nhi không khóc, không rơi lệ, ngồi yên, chết lặng. 

Ngay cả Thành Hóa đế bước vào lúc nào, nàng cũng không hay không biết. 

Y nhìn thấy thần sắc chết lặng của nàng, ánh mắt nhìn Chu thái hậu lập tức lạnh đi.

“Mẫu hậu cũng đã cao tuổi, từ nay về sau người nên ở trong Từ Ninh cung an hưởng tuổi già, không cần can thiệp vào hậu cung của trẫm nữa.”

“Người đâu, đưa thái hậu về cung.”

Chu thái hậu thốt lên:

“Ai gia là thân mẫu của ngươi, ngươi không thể đối với ai gia như vậy!”

Thành Hóa đế bật cười, nói:

“Phải, người là thân mẫu của trẫm. Nhưng mà, người có từng thật sự xem trẫm là con hay không?”

Chu thái hậu chợt ngẩn ngơ, không trả lời. 

Con ư? Một đứa trẻ từ nhỏ đã không ở bên cạnh mình, làm gì có tình mẫu tử nào sâu đậm chứ?

“Đưa thái hậu hồi cung.” Thành Hóa đế lạnh lùng ra lệnh. 

Đến khi bóng của thái hậu đã khuất sau cánh cửa, Vạn Trinh Nhi mời thẫn thờ hỏi:

“Thái hậu nói, tất cả đều là thật ư?”

Thành Hóa đế không đáp, chỉ nhẹ ôm nàng vào lòng, nói: 

“Trinh Nhi, nàng là thê tử duy nhất của ta. Trong hậu cung này, không ai có thể so sánh với nàng. Nàng không cần có hài tử, ta vẫn sẽ che chở nàng cả đời bình an. Chỉ cần ta còn sống một ngày, ngày đó nàng vẫn sẽ là chủ hậu cung, không ai dám khinh nhờn nàng. Sau khi ta băng hà, ta sẽ mang nàng theo, nàng không cần lo tân đế sẽ bạc đãi mình. Ta đã an bài mọi thứ ổn thỏa, nàng không cần lo lắng gì nữa.”

Nàng đã biết câu trả lời.

Nàng cảm thấy ghê tởm. Ghê tởm những lời đường mật này, ghê tởm dáng vẻ thâm tình này. 

Nàng cố hết sức đẩy y ra, vừa mỉm cười vừa rơi lệ, nói:

“Bệ hạ muôn phần che chở sủng ái thần thiếp. Vốn dĩ, đó là diễm phúc của thần thiếp. Nhưng cuối cùng, phần phúc ấy lại hóa thành gông xiềng trói buộc cả kiếp này. Rốt cuộc, đó không phải là phúc, mà là họa, đại họa.”

Từ đó về sau, nàng không hề bước chân ra khỏi Trường An cung. Nàng vốn muốn chết, nhưng Thành Hóa đế đã đưa phụ mẫu nàng tới kinh thành, phong cho phụ thân nàng làm quốc cữu. Nàng biết, y muốn uy hiếp nàng. Nếu nàng tự sát, phụ mẫu tất sẽ liên lụy. Thế nên, nàng không tự sát nữa.

Nàng bắt đầu tụng kinh niệm Phật, ra vẻ như mình thật sự đã nhìn thấu hồng trần, tứ đại giai không. 

Nàng bắt đầu kháng cự thị tẩm, lạnh nhạt với Thành Hóa đế.  

Nàng đang chờ, chờ ngày y không thể nhẫn nhịn nữa, trực tiếp ban chết cho nàng. 

Rất nhiều người đều đồn rằng, nàng kiêu ngạo tàn độc, ỷ sủng mà kiêu, bởi vì từng mất con nên đố kỵ các phi tần khác hoài long thai. Bất cứ ai trụy thai, họ đều bảo, là Hoàng quý phi làm.

Thật ra, bọn họ không hiểu. Một người mẹ từng mất con, sẽ không bao giờ muốn gây ra nỗi đau đó với một người mẹ khác. Ít nhất, nàng chính là như vậy. 

Nhưng cũng may, người ta đều thích lựa hồng mềm mà bóp, nhờ những lời đồn ác ý kia, mọi người đã dần dần sợ hãi nàng, không ai dám tới Trường An cung làm phiền nàng nữa, như thế cũng được yên tịnh hơn. 

Một thời gian sau, trong buổi cung yến, nàng trông thấy Thiệu Mạn Thanh, bây giờ đã là Thiệu tiệp dư. Nghe nói, bệ hạ ban cho nàng ta tên mới, gọi là Thiệu Trân Nhi. 

Trân Nhi, Trinh Nhi. Thật khiến người ta cảm thấy buồn cười. [1]

Kỷ Uyển Nhi thầm bực bội, nói:

“Thiệu tiệp dư kia rõ ràng là đang bắt chước nương nương. Người xem, từ đầu tóc y phục, đến giọng nói cử chỉ, đều là sao chép từ người mà ra.”

Nàng mỉm cười, bình thản nói:

“Ngươi đừng oán ghét nàng ấy làm gì. Cũng chỉ là một cô gái đáng thương thôi.”

Ở trong Tử Cấm thành này, không có nữ nhân tốt, cũng không có nữ nhân xấu, chỉ có những phận hồng nhan đáng thương. 

………

*Chú thích: 

[1] Hai chữ Trinh (贞) và Trân (珍) đều đọc là zhen.

--- -------

*Tác giả: Chương trước mình dùng sai danh xưng, hầu thiếp của thái tử thời này gọi là tài nhân, không phải là lương đệ. Mình đã sửa lại. ^^
Bạn có thể dùng phím mũi tên ← → hoặc WASD để lùi/sang chương.
Báo lỗi Bình luận
Danh sách chươngX

Cài đặt giao diện