Vương Dao Dao chun mũi cười, nói:

“Phụ thân, Giang Nam ấm áp như thế, nữ nhi còn sợ nóng đây, sao có thể lạnh được chứ?”

Đây cũng không phải nói càn, đối với đứa bé lớn lên ở kinh thành phương Bắc vốn quen giá hàn, thì chút sương lạnh đêm khuya của Tô Châu quả thật không là gì cả. 

Vương đại nhân vừa giận vừa buồn cười, đưa tay khẽ cốc lên trán con gái một cái, bảo:

“Cứng đầu như vậy, cẩn thận sau này không gả đi được.”

Vương Dao Dao le lưỡi một cái, cười hì hì nói:

“Không gả thì không gả, phụ thân nuôi là được.”

Vương đại nhân nhéo nhéo gò má phúng phính trắng nõn của con gái, khẽ thở dài một cái, nói:

“Làm gì có phụ thân nào nuôi nữ nhi cả đời chứ?”

Lần này ông chuyển đến Tô Châu kỳ thực là bị giáng chức. Từ chính nhị phẩm Hộ bộ Thượng thư trở thành chính lục phẩm Tri phủ Tô Châu, Vương đại nhân thực ra không phiền muộn gì cho mình. Đối với ông, tránh xa cái kinh thành hỗn tạp ấy cũng là việc khiến người ta nhẹ nhõm thoải mái. Nhưng ông chỉ ưu tư cho con gái. Có bậc cha mẹ nào không mong mai sau nữ nhi tìm được phu gia tốt? Chỉ là hiện tại Miên Nhi nhà ông lại rơi vào cảnh gả cao không được, gả thấp không đành, thật là tiến thoái lưỡng nan.

"Ký lai chi, tắc an chi [3]." Vương đại nhân thở ra một tiếng, gác lại tâm tư nặng trĩu, vỗ vỗ đầu Vương Dao Dao, bảo, “Xem chừng phải sáng sớm mai mới vào tới thành Cô Tô, con vào trong nghỉ ngơi một chút đi.”

Cô bé cũng không bướng bỉnh nữa, ngoan ngoãn gật gật đầu, liền vén rèm bước vào trong. 

Một cơn gió đêm thổi tới làm gợn sóng nước. Dường như còn mang theo mùi hương hoa quế thoang thoảng từ Cô Tô thành. 

~~~~~~~~

Cô Tô thành. Lý phủ.

Một gã thư đồng khe khẽ gõ cửa, từ bên trong vọng ra một tiếng nói:

“Thanh Thư, vào đi.”

Phương ngữ Tô Châu vốn dĩ thấm đượm không khí thư hương, mà thanh âm của người này lại càng êm ái nhẹ nhàng, chỉ nghe đã cảm thấy như phảng phất đâu đây mùi hương thanh khiết của Bích Loa Xuân [4] hay làn nước mát lạnh trong veo của Thái hồ. 

Gã thư đồng Thanh Thư liền đẩy cửa bước vào. Chỉ thấy bên án thư cạnh cửa sổ có một bóng người đang ngồi, ánh nến leo loét ở trên bàn cách đó khá xa, không đủ soi rõ dung mạo người đó. Trong mông mông lung lung, nguyệt quang luồn qua song cửa sổ, thấp thoáng soi chiếu một nửa khuôn mặt của chàng. Trắng tựa dương chi bạch ngọc. 

“Bẩm công tử, ta vừa hỏi thăm Lục Như tỷ bên chỗ phu nhân, lão gia và phu nhân quả thực vừa nhận được bồ câu đưa tin của Vương đại nhân, ước chừng rạng sáng ngày mai sẽ vào tới thành.” 

Vị công tử kia nghe xong lời thư đồng bẩm báo, không nhìn rõ trên khuôn mặt ấy có tâm tình ra sao, chỉ nương ánh trăng thấy được khóe môi của chàng dường như nhếch lên, tạo thành một độ cong.

“Ta biết rồi, Thanh Thư, ngươi đi nghỉ đi, không cần gác đêm. Sáng mai dậy sớm chuẩn bị xe ngựa, chọn cỗ xe ngựa ta vừa mới chỉnh sửa lại gần đây, nhớ chưa?”

Tuy rằng nói chuyện với gia phó, ngữ điệu của chàng vẫn rất mực nhỏ nhẹ, không có cảm giác là đang ra lệnh sai bảo, chỉ như dặn dò thân nhân. 

Thanh Thư cúi đầu dạ một tiếng, liền ra ngoài khép cửa lại.

Trong gian phòng, giờ đây chỉ còn lại một mình người ấy. 

Chàng đưa tay thắp đèn dầu lên, tức thời ánh sáng ấm áp bao phủ cả một vùng, cũng soi rõ bức họa đang đặt trước mặt chàng. Đó rõ ràng là một phiên bản thiếu nữ của Vương Dao Dao.

Chàng nâng ngón tay, nhè nhẹ vuốt ve đôi má của thiếu nữ trong tranh, động tác cẩn trọng trìu mến như nâng niu trân bảo, ánh mắt đầy nhu tình. 

“Biểu muội, đã lâu không gặp.”

Một tiếng cảm thán thật khẽ vang lên trong không gian tĩnh mịch.

Ngoài cửa, côn trùng kêu rả rích. 

Đêm bỗng dưng thật dài.

~~~~~~~~~

*Chú thích:

[1] Bài “Phong Kiều dạ bạc” của nhà thơ Trương Kế thời Đường, viết về bến Phong Kiều ở Tây huyện, Giang Tô. 

Dịch nghĩa: 

Trăng lặn, quạ kêu, sương phủ đầy trời.

Hàng phong bên sông, ngọn đèn thuyền chài ở trước người đang ngủ buồn.

Ngoài thành Cô Tô là chùa Hàn San,

Tiếng chuông lúc nửa đêm vẳng đến thuyền khách.

Dịch thơ:

Nguyệt tà, quạ lảnh lót kêu sương

Ánh lửa cầu phong vỗ mộng thường

Bến vắng Cô Tô thuyền lẻ bóng

Hàn Sơn rền rĩ khách nghe chuông.

(Bản dịch của Hải Đà)

[2] Đại Vận Hà: còn gọi là Kinh Hàng Đại Vận Hà, là kênh đào cổ đại với đoạn cổ xưa nhất có từ thế kỷ 5 TCN, dần dần qua các đời sau được mở rộng ra thêm, đến đời Minh được cải tạo lại và bấy giờ nó nối thông từ Bắc Kinh cho đến Giang Tô, Chiết Giang, là huyết mạch chính để giao thương, vận chuyển hàng hóa từ vùng Giang Nam trù phú đến kinh thành.

[3] Ký lai chi, tắc an chi: Chuyện gì đến cũng đã đến, cứ bình tĩnh mà đương đầu với nó. 

[4] Bích Loa Xuân: là loại danh trà nổi tiếng của vùng Thái Hồ, Tô Châu, được liệt vào một trong “Thập đại danh trà” bên cạnh Long Tỉnh, Thiết Quan Âm, Lục An Qua Phiến,... Bích canh (nước màu xanh), Loa hình (hình xoắn ốc cuộn thành loa), lại được ngắt xuống vào mùa xuân nên gọi là Bích Loa Xuân.

*Lời tác giả: Thật sự rất là mê phương ngữ Tô Châu a ~~~

timg 1jpeg
Bạn có thể dùng phím mũi tên ← → hoặc WASD để lùi/sang chương.
Báo lỗi Bình luận
Danh sách chươngX

Cài đặt giao diện