Hoàng Hậu nương nương nhìn thư một lúc lâu mới cầm lấy rồi tựa vào đầu giường xem lại nhiều lần, chợt nhớ tới mấy lời mà ngày hôm qua Tuyên phu nhân nhỏ giọng nói với nàng trước khi chạy vội đi.

Nàng ấy nói sau này hãy sống nương tựa lẫn nhau với thánh thượng trong cung, hai người phải cố gắng.

Lúc đó, Tề Lưu Uẩn chưa hiểu rõ thâm ý trong lời nói này, bây giờ nàng đã biết.

Chờ đến tối khi Bảo Lạc uể oải trở về, Hoàng Hậu nương nương nói với hắn: “Thiếp biết cách thu dược liệu có lợi.”

“Hả?” Bảo Lạc sững sờ nhìn nàng.

Hoàng Hậu nương nương giải thích: “Khi thiếp ở quê nhà, nơi núi Liên Sơn của Xương Châu, trong núi thường có đồ quý và dược liệu, thiếp từng nghe người ta nói qua một ít, cũng hiểu sơ một, hai phần.”

Bảo Lạc bỗng cảm thấy phấn chấn, sờ tay về phía mỹ nhân: “Thê tử, nàng nói đi.”

Nương nương rụt tay lại, không dám nhìn đôi mắt đang phát sáng của hắn, hơi ngoảnh mặt sang bên, nói: “Mấy nhà sống ở trong núi và dưới chân núi đều vào núi đào dược liệu để bán cho hiệu thuốc, thu lại của bọn họ là được rồi, rẻ hơn so với mua từ hiệu thuốc. Bọn họ từ đời này đến đời khác đều sống ở nơi ấy, cũng sẽ bào chế dược liệu; còn hiệu thuốc đều thu trực tiếp từ bọn họ rồi đi bán. Có điều, dược liệu tốt được hong khô bào chế xong thì sẽ đắt hơn một, hai văn so với lúc vừa đào ra…”

Nàng nói đến đây cũng không nói được nữa, thấy hắn nhìn chằm chằm không rời mắt nhưng không lên tiếng, nàng chẳng thể làm gì khác ngoài nhắm mắt nói tiếp: “Ở quê nhà thiếp có nhiều người trong tộc, nếu như ngài muốn thì để thiếp nói với các trưởng bối một tiếng, để ngày thường lúc rảnh rỗi bọn họ thu giúp ngài, đến lúc ấy thì ngài phái người đi lấy là được. Ngài thấy như nào?”

Nàng thật sự sợ nói sai, trong lời nói cũng không phóng khoáng. Tề Lưu Uẩn vừa nói vừa bồn chồn trong lòng, thấp thỏm bất an.

“Để ta xem.” Bảo Lạc tự xưng, ho khụ: “Để trẫm xem…”

Hắn lôi kéo tay của Hoàng Hậu đặt lên môi, hôn hai cái, tinh thần phơi phới, nói: “Trẫm thấy rất được, để trẫm nói với Bát Tiếu thương lượng với người của trại ngựa xem chuyện này làm như nào.”

Hoàng Hậu vẫn chưa thể bình tĩnh lại, nở nụ cười cứng đờ: “Vậy, vậy cũng được.”

Bảo Lạc ngắm gương mặt tươi cười của nàng, dù cho Hoàng Hậu nương nương đang cười lúng túng thì trong mắt hắn cũng là một đoá hoa đẹp. Hắn si mê ngắm nương nương, nói: “Hoàng Hậu, nàng rất đẹp.”

Hoàng Hậu mờ mịt không biết nguyên nhân, chờ buổi tối hắn lại nhào lên người nàng như rồng cuốn hổ chồm thì nàng mới cảm thấy, hình như hắn khen nàng đẹp là khen thật.

Bằng không, cũng sẽ chẳng… hưng phấn như vậy.

Tuyên phu nhân nói thánh thượng là người có tấm lòng son, chỉ cần cố gắng sống tốt với hắn thì những ngày tháng này sẽ tốt…

Lời này đúng là không phải nói để an ủi nàng.

**

Lâm Bát Tiếu vừa lừa vừa dụ, cậy được mấy học sĩ Hàn lâm của Hàn Lâm viện đi cùng hắn đến Liễu Châu, lên đường vào ngay hôm ấy.

Hứa Song Uyển nghe nói hắn phải đi thì dở khóc dở cười, vội vàng nói trượng phu mời hắn đến, hỏi: “Lần trước, chuyện đệ nói với ta có còn tính không?”

Khoảng thời gian này, Lâm Bát Tiếu bận chóng mặt. Khi đó, hắn muốn bắt kịp việc cầu cưới của Bảo Lạc nên nông nổi cũng muốn thành hôn, nhưng ngày tháng này hắn bị nhiều việc trong triều cuốn lấy chỉ thiếu cách muốn phân thân nên quên mất việc ấy, mãi đến tận lúc Trọng An huynh nói tẩu tử tìm hắn có việc thì hắn mới chợt nhớ ra.

Hắn thẹn thùng, nói: “Có, tính chứ.”

Hứa Song Uyển thật sự muốn tìm kỹ càng cho hắn, mà người ta cũng có ý với hắn, là đích tôn nữ của nhà Từ các lão.

Lâm Bát Tiếu vừa nghe là tôn nữ nhà Từ các lão thì miệng há to, không dám tin: “Không phải chứ?”

Hắn nào có phúc ấy.

“Từ các lão đã gật đầu, nhờ ta hỏi ý của đệ, ta cũng đã nhìn qua, rất…” Hứa Song Uyển thật sự cũng không biết nói như nào mới được, nhưng nàng cảm thấy Lâm Bát Tiếu nhất định sẽ thích cô nương kia: “Có tướng mạo rất vượng phu và vượng tử. Nếu như hôm nay đệ rảnh thì ở lâu một chút, đợi lát nữa Từ cô nương và mẫu thân nàng ấy đến phủ trò chuyện với ta.”

Lâm Bát Tiếu đứng ngồi không yên, đứng dậy quan sát cả người mình, cười gượng nói với đại tẩu Trọng An: “Tẩu tử, tẩu nhìn đệ, đệ nghe nói tẩu gọi đệ đến, đều là người trong nhà gặp nhau nên đệ cũng không chải chuốt…”

Hắn mặc y phục như ngày thường đến.

Hiện giờ, hắn cũng có ít áo gấm áo lụa, nhưng Lâm Bát Tiếu là người có tính tình tuỳ ý, hắn không ủ rũ khi gặp khó khăn, cũng chẳng mừng rỡ khi phú quý. Khi hắn gặp mặt với đồng liêu bạn tốt thì đều mặc y phục thường ngày, tình cờ nhớ đến hoặc là bị người ta nhắc nhở thì hắn mới mặc y phục đẹp đẽ.

Hắn tuỳ ý, nhưng cũng không phải không biết lễ, cũng cảm thấy mình ăn mặc đồ cũ thì không thoả đáng khi gặp mặt người ta, bèn sốt ruột.

“Không ngại, không phải Từ các lão đã từng gặp đệ rồi à?” Từ các lão nói, hắn có dáng vẻ như thư sinh nghèo túng, còn rất vui tai vui mắt.

Lâm Bát Tiếu vừa nghe vậy, bỗng nhớ tới mấy lần trước gặp Từ các lão, hắn đều ăn mặc rất keo kiệt. Có lúc, hắn giúp đỡ Bảo Lạc và đám các lão mới cãi nhau, còn đang mặc trường bào có miếng vá.

Trường bào kia vốn là còn vài phần mới, là Bảo Lạc thưởng cho hắn mặc; chỉ là mấy lần trước ở bên ngoài xảy ra ít chuyện nên bị xé, hắn về nhà vá lại rồi mặc tiếp.

Trường bào của Bảo Lạc rất tốt, mặc vào là ấm áp. Ngày nào Lâm Bát Tiếu cũng mặc, gặp nhiều quan lớn, mãi đến tận lúc bẩn thì mới cởi ra rồi đổi một cái khác.

Lâm Bát Tiếu giơ tay che mặt, hé mắt từ trong kẽ tay nhìn tẩu tử Trọng An, nói với giọng ồm ồm: “Đệ cứ như vậy mà Từ các lão cũng để ý?”

Hứa Song Uyển thấy hắn nghe không hiểu bèn dứt khoát nói toạc ra: “Từ cô nương đã từng gặp đệ, sẽ chờ đệ gặp nàng ấy.”

Hai mắt Lâm Bát Tiếu trợn to, buông tay xuống: “Chuyện từ khi nào?”

“Hình như là Từ các lão dẫn nàng ấy nhìn qua đệ.”

“Chỗ nào?”

Hứa Song Uyển mỉm cười lắc đầu: “Ta không biết.”

Lâm Bát Tiếu lại che mặt, thở dài: “Ngàn vạn lần đừng nhìn thấy vào lúc đệ uống rượu với đồng liêu ở bên ngoài.”

“Hả?”

Lâm Bát Tiếu đứng lên, chân giơ lên chạm vào cái ghế hắn vừa ngồi, lại kéo tay áo lên, cầm chén trà ngửa đầu uống cạn, rồi đột nhiên đặt chén lên bàn, đưa tay ra ca hát: “Bảo một đôi, một lòng kính, hai đứa được, ba tam nguyên, bốn mùa tài, ngũ đứng đầu, lục lục thuận, xảo bảy cái, bát tiên đến, chín lâu dài, đầy cả sảnh…” [1]

Lâm Bát Tiếu bỏ chân xuống, sờ mặt, rũ mắt né nụ cười của tẩu tử Trọng An, lại nhìn một loạt vú già và người hầu bên cạnh đang run run cố nhịn cười, bất đắc dĩ hỏi nàng: “Tẩu xem đệ đi, vừa keo kiệt vừa lưu manh mà Từ cô nương thật sự coi trọng đệ ư?”

Không phải Từ các lão muốn lấy lòng Bảo Lạc để mấy huynh đệ bọn hắn vui mừng rồi ép chứ? Hứa Song Uyển phải mất một lúc lâu mới nhịn cười, nói: “Cũng được, ta thấy Từ cô nương cũng không phải không tình nguyện, như này đi, chuyện bây giờ cũng khó nói, chờ đệ gặp xong thì nói sau?”

Lâm Bát Tiếu đương nhiên bằng lòng. Lúc này, Tuyên Trọng An làm việc ở thư phòng đã quay về, thấy mọi người trong phòng đều nhịn cười, bèn không rõ hỏi Uyển Cơ: “Sao thế?”

Lám Bát Tiếu nhón chân, chuẩn bị chuồn ra cửa.

“Đứng lại.” Tuyên Trọng An thấy chén trà bị đậy trên bàn, bèn nghiêng đầu qua chỗ khác, nói: “Lại đây.”

Lâm Bát Tiếu cứng đờ, lui về.

Tuyên Trọng An rút cây quai dắt trong đai lưng, mạnh mẽ gõ đầu hắn hai lần: “Không có quy củ.”

Hắn vừa nói xong bèn ném quạt đi, hất trường bào ngồi xuống cạnh Hứa Song Uyển: “Nói xem, có chuyện gì?”

Chờ nghe xong chuyện Lâm Bát Tiếu vừa làm hồi nãy, hắn bèn cau mày nhìn Lâm Bát Tiếu một lát, Lâm Bát Tiếu cười gượng, nói: “Đệ chỉ khoa tay với tẩu tử một lát chứ không có ý gì khác.”

Tuyên Trọng An hừ lạnh: “Bẩn thỉu xấu xa.”

Hắn vừa dứt lời bèn quay lại nhìn Hứa Song Uyển: “Lúc nào đến?”

“Sắp rồi.” Hứa Song Uyển nhìn canh giờ.

Quả nhiên, sau khi nàng nói chưa lâu, bọn họ ngồi hàn huyên thêm một lát thì bên ngoài có người báo, nói là Từ phu nhân dẫn theo cô nương đến rồi.

**

Hôm nay, Tuyên Trọng An đặc biệt ở nhà, sau khi người của Từ gia đến thì hắn lại trở về thư phòng. Một lát sau, hắn còn chưa viết được nửa bức thư thì ngoài cửa liền vang lên tiếng bước chân chạy trốn dồn dập.

Trong nhà còn chưa ai dám bước đi như vậy, không cần nghĩ cũng biết ai tới, Tuyên Trọng An cũng chẳng buồn ngước mắt lên, tay không buông bút Long Phượng.

Lâm Bát Tiếu thở hồng hộc chạy vào, vừa tiến vào đã đè tay lên bàn, không màng thở dốc mà mở miệng: “Trọng An huynh, hôn sự này định vào ngày nào? Có thể thành hôn ngay ngày mai không?”

Tuyên Trọng An cứ viết, không lên tiếng.

“Trọng An huynh, Trọng An huynh!”

“Suỵt!” Thấy hắn gọi to, A Mạc đang đứng ở góc tường chờ hầu hạ dựng thẳng tay, ra hiệu đừng làm phiền Tả tướng đại nhân – trưởng công tử nhà bọn họ

“Lửa cháy đến nơi rồi, Trọng An huynh, xin huynh thương xót, sáng mai lại viết tiếp…” Lâm Bát Tiếu gấp đến mức gây ầm ĩ, còn chưa dứt lời thì bị đôi mắt Tuyên Trọng An ngước lên nhìn chăm chú đến mức sau lưng cảm thấy lạnh, im bặt.

Còn chưa viết xong, Tuyên Trọng An từ từ đặt bút qua một bên, giơ tay lên, A Mạc có ánh mắt vô cùng tốt bưng khay bạc đến để hắn rửa tay, lau khô xong tay thì hắn mới lên tiếng: “Không phải đệ vội vàng đến Liễu Châu à?”

“Chính vì thế mà bây giờ mới gấp đây.”

“Coi trọng?”

“A, ca…” Lúc này Lâm Bát Tiếu mới thở ra hơi, thở hổn hển mấy cái rồi cười nói: “Tẩu tử chọn người cho đệ!”

“Hừ.” Tuyên Trọng An cười lạnh, đi ra khỏi bàn ngồi vào ghế ở phía trước, nhận lấy chén trà do A Tham mang tới, uống một hớp: “Không phải nàng chọn, người ta tự mình tìm đến, nàng ấy chỉ là nhìn qua mà thôi.”

Lâm Bát Tiếu thu lại nụ cười, ngồi xuống bên cạnh, nhận chén trà A Tham bưng tới đặt qua một bên, hắn không còn lòng dạ uống trà, nhìn Tuyên Trọng An, mở miệng: “Huynh là nói…”

“Cũng chưa chắc có ý đó.” Tuyên Trọng An lạnh nhạt nói tiếp: “Chắc là coi trọng đệ. Nếu như đệ coi trọng thì không cần nghĩ nhiều, đối với đệ mà nói, cũng là nơi có thể dựa vào, so với cưới thông gia mạnh thì cưới thông gia vừa ý đệ cũng chưa chắc không phải vừa ý thân phận của đệ. Chọn Từ gia, dù không có Bảo Lạc thì đệ cũng không tính là đánh đơn, cũng có thể giúp Bảo Lạc một ít.”

Lâm Bát Tiếu cân nhắc, im lặng một lát, trái tim nhất kiến chung tình đập thình thịch nãy giờ, mãi đến lúc này mới từ từ lắng xuống. Một lúc sau, hắn gật đầu, nói: “Nhưng cô nương nhà người ta có thể coi trọng đệ chứ?”

Tuyên Trọng An lạnh lùng liếc hắn.

Lâm Bát Tiếu liên tục hỏi: “Có thể không?”

Tuyên Trọng An không nhịn được bèn gõ bàn: “Đã đến đây gặp đệ, đệ nói xem?”

“Đó là có thể?”

Tuyên Trọng An nhìn về sắc trời ngoài cửa sổ: “Được rồi, nên ra ngoài.”

Hắn cũng không muốn nói chuyện dây dưa với Lâm đại nhân trong đầu chỉ có nữ nhân nữa.

“Trọng An huynh!” Lâm Bát Tiếu đứng lên cản hắn, liên tục chắp tay vái chào hắn: “Đệ không hỏi đệ không hỏi nữa, đệ chỉ hỏi một chút, những ngày tháng sau này định như nào? Sính lễ như nào? Có kịp không? Vẫn là nói, đại tẩu Trọng An sẽ làm người tốt đến cùng, sắp xếp hết giúp đệ chứ?”

“Đệ có bạc à? Tuyên Trọng An phẩy tay áo, hững hờ hỏi.

“A?”

“Không có thì để tẩu tử giúp đệ quyết định đi, sính lễ thì không cần nghĩ, để bên phía Bảo Lạc giúp đệ.” Tuyên Trọng An đứng lên, nói với A Tham: “Đi nói với Thiếu phu nhân, nói là thành rồi.”

“Vâng.”

A Tham ra ngoài, Tuyên Trọng An đứng sát lại, nói với Bát Tiếu: “Đệ cũng là nghĩa huynh của Bảo Lạc, kém tuổi hơn ta, cũng là nghĩa đệ của ta; phụ mẫu đệ đều mất, trong nhà cũng không có ai làm chủ. Nếu tẩu tử giúp việc thành hôn của Bảo Lạc thì đệ cứ thuận theo tẩu tử đi, không nên nghĩ nhiều, chờ sau khi bọn đệ thành gia thì kính trọng tẩu tử các đệ một chút, đừng quên ngày hôm nay nàng ấy có lòng lo liệu cho bọn đệ là được.”

“Không dám quên, đương nhiên không dám quên.” Lâm Bát Tiếu khom người chắp tay, vái chào đến cùng.

“Đi dạo trong vườn với ta một lát.”

Lâm Bát Tiếu đi theo phía sau.

Ra cửa, Tuyên Trọng An hỏi hắn: “Nhìn thấy vừa ý à?”

Lúc này Lâm Bát Tiếu mới xấu hổ, nói: “Vừa ý.”

“Tốt thế à?” Nhìn hắn thần hồn điên đảo, hồn bay phách lạc thế kia rồi.

“Được, có da có thịt.” Lâm Bát Tiếu mỉm cười: “Tẩu tử nói nàng vượng phu vượng tử, đệ còn nghĩ là dung mạo như nào, thấy rồi mới biết, còn có mỹ nhân nhường này.”

“Đẹp?”

“Đẹp.” Vẻ đẹp rất được người ta yêu thích, mập mập ngọt ngào.

“Thích thì cưới.”

“Vâng.” Lâm Bát Tiếu gật đầu, một lát sau, hắn lại nói: “Trọng An huynh, tổ tiên của Từ gia có lai lịch như nào, huynh có thể nói với đệ không?”

Tuyên Trọng An dẫn hắn đi dạo, chính là có ý muốn nói tỉ mỉ về Từ gia. Lúc này, thấy hắn hỏi thì Tuyên Trọng An mở miệng kể.

“Nguyên quán của Từ gia ở Liêu Hải Thanh Châu, chính là nơi…”

**

Hứa Song Uyển rất nhanh nhận được tin do A Tham đưa đến, hắn thấy Từ phu nhân và Từ cô nương lặng lẽ nhìn thì lúc A Tham lên tiếng, giọng nói còn hơi to: “Lâm đại nhân vui mừng nhảy cẫng, nói năng lộn xộn, nói muốn hỏi ngài việc đính ước như nào mới được.”

Hắn vừa nói xong thì đích tôn nữ của Từ gia – Tam cô nương xấu hổ đỏ mặt, hồng từ cổ đến tận tai, bị nương nàng ấy nhìn thấy thì bà vừa buồn cười vừa tức giận trợn mắt nhìn nữ nhi nhà mình.

Thực sự là nữ nhi lớn không thể giữ.

Hứa Song Uyển bật cười, nàng giữ Từ phu nhân ngồi một lát rồi nhỏ giọng thương lượng với Từ phu nhân về cọc hôn sự này.

Dù sao Từ gia cũng là thế gia vọng tộc, việc thành hôn không thể vội vàng. Từ gia gả cô nương đều theo lễ nghi, không thể ít hơn sáu lễ, nhưng Lâm Bát Tiếu sau mấy ngày nữa đã phải đi rồi. Hiện tại, còn phải nạp thải, vấn danh, nạp cát, nạp chinh, định ngày; mọi thứ đều phải làm, đợi ngày tháng được định xong thì chỉ chờ Lâm Bát Tiếu chọn ngày đón dâu.

Việc đón dâu không thể định ra trong mấy ngày, sớm cũng phải một hai tháng. Nếu như trong nhà muốn giữ nữ nhi lại thì cũng phải đợi nửa năm đến một năm.

Không giống Hứa Song Uyển, thành hôn vội vàng; khi đó, Hứa gia muốn nàng mau mau gả cho Hầu phủ rồi đoạn tuyệt quan hệ. Người ngoài nói ra vào, đều biết nàng không được Hứa gia coi trọng.

Từ phu nhân cảm thấy Lâm Bát Tiểu không thể làm quan trong kinh, hoặc là qua nửa năm nữa thành thân cho đỡ tiếc; nhưng vẫn đồng ý đề nghị của Hứa Song Uyển, nói sau khi về nhà bẩm báo với lão phu nhân trong nhà, chờ nàng lại đây nạp thải cầu hôn.

Việc thành hôn của Lâm Bát Tiếu xem như được định xong. Hắn ở kinh thêm hai ngày, nhưng sau hai ngày, hắn vẫn thúc ngựa dẫn người và ngựa đến Chiêu Châu.

Ôn dịch ở Chiêu Châu đã dừng lại, nhưng cũng đã có rất nhiều người chết. Dân chúng của Chiêu Châu và Liễu Châu còn sống cảm thấy bất bình. Châu Chiêu còn là đất phong của Ngũ Hiền vương, Hiền vương gia là nhi tử thứ hai của Hoàng Hậu của Cao Tổ Đế. Sau đó Cao Tổ qua đời, tiên đế kế vị, hắn được phong Chiêu Châu dựa vào Gia Châu bên cạnh.

Đất của Gia Châu nhỏ nhưng cũng là nơi các bộ tộc sống chung, dã tính khó thuần, một lời không hợp liền nâng đao đối mặt, xưa nay không phục quản giáo của triều đình quan phủ. Ngũ Hiền vương có đất phong này, nói là đất phong, thực ra gần như đất lưu vong.

Nhưng lần này Liễu Châu xảy ra chuyện, Chiêu Châu gặp biến cố, lão Ngũ Hiền vương cũng đã phái nhiều người đến Chiêu Châu kích động lòng người. Mắt thấy rõ ràng tiếng oán than dậy đất của dân chúng, cũng đã có không ít người tụ lại thành phỉ cướp giết bắt tàn bạo khắp nơi. Tân hoàng mới đăng cơ chưa lâu, phái người của quân doanh Lạc Châu qua giết phỉ, nhưng quan binh vừa xuất hiện thì hiện giờ Chiêu Châu càng đại loạn. Tri phủ Chiêu Châu vô năng, coi việc triều đình phái binh giết cướp như là triều đình phát binh giết bọn họ. Mắt thấy Châu Châu sắp thành nơi của quân binh chống đỡ, mấy người vừa thương lượng, chỉ lo nơi này thành lửa cháy lan ra đồng cỏ. Lâm Bát Tiếu muốn đi châu Liễu, lần này đứng ngồi không yên, xin đến châu Liễu làm Tri phủ, tiện thể bình loạn của Châu Châu.

Lâm Bát Tiếu rất giỏi giao tiếp với người khác, đặc biệt là giao tiếp với bình dân bách tích. Trước đây, hắn đã nhiều lần theo dân chúng Kim Hoài làm loạn thêm cho quan phủ. Hiện tại, hắn thân là quan phủ, nhưng Qua Ngọc Cẩn và Bảo Lạc vẫn cho rằng hắn có thể giải quyết vấn đề của dân chúng, nhìn Bát Tiếu trước kia vừa ăn vừa ở với đân chúng là biết, hắn hiểu trong lòng dân chúng bình thường quan tâm nhất là thứ gì.

Mà thế cuộc không phải chỉ đơn giản dăm ba câu có thể nói rõ ràng. Người đi vào Chiêu Châu và Liễu Châu, Bảo Lạc chỉ có thể tin tưởng Bát Tiếu ca ca, phái ai đi thì hắn đều sợ người ta làm hỏng chuyện, sợ ngoảnh lại thì dân chúng của Chiêu Châu sẽ giết đến, lấy mạng nhỏ của hắn mất.

Hiện tại, Bảo Lạc cũng không dám soi gương, sợ người trong gương có hình ảnh Hoàng Đế mất nước, vô cùng thê thảm.

Quá xấu, cũng quá thảm.

Cũng may Hoàng Hậu không chê hắn. Bảo Lạc lớn lên ở phương nam, da mặt mềm mại, vừa đến mùa đông của phương bắc thì da mặt lập tức nứt nẻ, nứt toác vết lớn. Ngày nào Hoàng Hậu nương nương cũng không ngại gian lao bôi cao Tuyết Cơ cho hắn, cao Tuyết Cơ thơm, Hoàng Hậu nương nương cũng thơm. Chỉ cần không ra khỏi Vinh Phượng cung thì khuôn mặt của Bảo Lạc lúc nào cũng mỉm cười, cười đến mức không nhìn ra đôi mắt. Hoàng Hậu nương nương phải nhìn kỹ thì mới nhìn ra đôi mắt loé sáng đầy ắp thủ đoạn của hắn.

Hoàng Hậu nương nương đối xử với Bảo Lạc rất tốt. Bảo Lạc ngoảnh lại liền vui mừng theo sát, nói với Tuyên tướng: “Gọi tẩu tử vào cung chơi với Hoàng Hậu nhà đệ đi mà.”

Tuyên tướng gật gù, quay lại liền thu dọn đống sổ con chồng đến trước mặt hắn.

Sau khi Hoàng Đế nhìn hai bản sổ con thì sầm mặt nhìn Tuyên tướng, nói: “Đệ nợ huynh à?”

Để hắn vui mừng một lúc cũng không được à?

Tuyên Trọng An không nhiều lời với hắn. Qua tháng mười một chính là tháng chạp, một năm chẳng mấy chốc đã qua, nhưng ngày tháng khó nhất của bọn họ vẫnc hưa đến, chờ sang năm Hộ bộ không ra bạc thì mới là lúc khó khăn nhất.

Bọn họ thiếu bạc, nhưng lại không thể lấy bạc từ dân chúng, những năm này sưu cao thuế nặng, đã đào sạch bong số bạc còn dư mua lương thực trong túi tiền của dân chúng, lại lấy thì chỉ còn nước lấy mạng của bọn họ, cũng chẳng khác cướp là bao. Chờ bọn họ nghỉ ngơi lấy lại sức thì cũng phải sau ba năm rưỡi, còn ba năm rưỡi này sống như nào thì để bọn họ tự nghĩ cách.

Bảo Lạc ăn quả đắng từ chỗ Tuyên tướng, ngoảnh lại nhìn đại thần thấy bọn họ mắt không ra mắt, mũi không ra mũi, dứt khoát phạt bổng lộc của bọn họ.

Trong quãng thời gian này, quyền lực của các lão đại thần bị làm mờ nhạt, đa số việc của truyền đình đều nằm trong tay Tả tướng Tuyên Trọng An và Lục bộ, mà toàn bộ Lục bộ rõ ràng đều là hắn làm chủ, mặc hắn định đoạt. Lại có một vài việc, cũng nằm trong tay quan viên trẻ tuổi mới vào triều, những người này đều đỗ đạt từ kỳ thi mùa xuân do Tuyên Trọng An và Thượng thư Lễ bộ chủ trì, bọn họ xem như là đệ tử của Thượng thư Lễ bộ. Những người này, người nào người nấy đều như khúc xương cứng, còn rất khó lôi kéo. Các lão thần trong triều hết cách với đám người này, quyền lực trong tay bị tước dần, bởi vậy nên bọn họ rất lo lắng.

Bọn họ đang làm quan nhưng không có quyền lực, sau lưng không có vinh hoa phú quý, không có người nịnh nọt thì bọn họ làm quan lớn để làm gì?

Ngay cả nhà người đứng đầu các lão Đào Tĩnh cũng ngày càng ít môn khách. Không phải Đào Tĩnh không mở to cửa ra chào đón tân khách khắp nơi mà là do chẳng có mấy ai ghé.

Lúc này, người của Ngự sử đài đều là người của Tả tướng Tuyên Trọng An, vừa lên triều lập tức chọn đại thần kết tội. Ngày nào đó, có đại thần lớn tiếng nói chuyện với Tuyên tướng thì cách một ngày, bọn họ lập tức dâng tấu vị đại nhân này; cuối cùng, chẳng có ai dám mở miệng nói gì với Tả tướng đại nhân.

Bắt hắn một lần, sau lưng hắn liền có một đống người xông lên cắn ngươi, không cắn đứt được một miếng thịt của ngươi thì không bỏ qua, cực kỳ khó đối phó.

Chờ tháng mười một qua, bước vào tháng chạp, Hứa Song Uyển vội vàng ăn tết. Lúc này, nàng còn không biết, mẫu thân Hứa Tằng thị ở Giang Nam cách xa nàng đã dẫn theo con dâu và cháu dâu được sinh ra ở phương nam lặng lẽ vào kinh, được Đào Tĩnh sắp xếp ở trong một đại trạch.

Tân Lại bộ Thượng thư Tịch Ninh Hạo cũng nhận được một tấu thư của một quan viên do Thị lang gửi cho, là thư của quan viên muối vận ty, xin hưu mộc để về nhà thăm người thân.

“Viên quan muối vận ty này họ Hứa, người kinh thành; đại nhân, ngài nhìn xem.” Lại bộ Thị lang đưa danh sách tới trước mặt Tịch Ninh Hạo: “Hứa gia trong kinh, phụ thân là Hứa Trùng Hành, tổ phụ Hứa…”

Hứa Bá Khắc.

Tịch Ninh Hạo quen thuộc danh sách của quan viên, đương nhiên biết Hứa Trùng Hành và Hứa Bá Khắc là ai. Ông gật gù: “Đúng lúc ta có việc muốn đến chỗ Tả tướng một chuyến, ngươi mang đồ theo, đi theo ta.”

Tuyên Trọng An nhìn thấy tấu chương thì nhíu mày, nói: “Nhậm chức vẫn chưa tới ba năm phải không? Hay là hết nhiệm kỳ rồi?”

“Chưa tới ba năm, chưa hết nhiệm kỳ.”

“Các ngươi cứ làm theo luật.” Tuyên Trọng An nói.

“Vâng.” Theo luật, vậy thì là không đồng ý.

Sau khi Tuyên Trọng An về nhà, kể với Hứa Song Uyển việc này. Hứa Song Uyển nghe xong thì im lặng một lúc lâu rồi hỏi hắn: “Chàng biết hắn ở bên kia sống như nào không?”

Tuyên Trọng An nhìn nét mặt của nàng không tỏ rõ, đưa tay ra xoa sau gáy nàng, nói: “Thuỷ vận và muối vận ty là nơi mà thánh thượng và ta sẽ sửa lại tiếp theo. Nếu như hắn an phận thì sau này có thể vẫn ở vị trí kia, còn không thì cho hắn một vị trí ngây người là được.”

Có nghĩa là dính ánh sáng của nàng nên sẽ không đoạt đường sống của hắn.

Hứa Song Uyển gật đầu, thật ra nàng không hỏi huynh trưởng, mà là hỏi mẫu thân.

Từ ngày nàng thay huynh trưởng gả tới Hầu phủ thì tình huynh muội đã ân đoạt nghĩa tuyệt, nàng chỉ còn nhớ đến mẫu thân.

Nàng và mẫu thân đã không còn là mẫu tử; dẫu vậy, Hứa Song Uyển vẫn mong bà có thể bình an hưởng tuổi già.

Hứa Song Uyển biết, trong lòng mẫu thân, bà an dưỡng tuổi già chắc chắn có nhi tử ở cùng. Bà đã không có trượng phu, không thể nào bỏ được nhi tử.

Lúc này, Hứa Song Uyển còn chưa biết, vì trưởng tử thuận lợi về kinh nên sau khi Hứa Tằng thị về Hứa gia một chuyến, liền gặp lại Hứa Trùng Hành.

Hứa Trùng Hành đã không phải là Hứa Trùng Hành của trước đây. Ông ở nhờ nhà của đệ đệ, ngày ngày mượn rượu giải sầu. Hứa Tằng thị bí mật đến gặp ông ta, không chỉ mang bạc đến mà còn đưa cho ông ta một tin có thể một bước lên trời, cơ hội lớn để báo thù đã tới.

Bởi vậy, ông ta không hề do dự mà bước vào bên trong phòng phụ thân Hứa lão thái gia đã bị trúng gió.
Bạn có thể dùng phím mũi tên ← → hoặc WASD để lùi/sang chương.
Báo lỗi Bình luận
Danh sách chươngX

Cài đặt giao diện