Ngày hôm sau sắc trời có phần âm u, cơn gió nhẹ mang theo
cái lạnh se se, ta sợ Thiên Xu ở trong phòng suốt ngày sầu muộn đến hỏng người,
liền cùng y đi ra hít thở khí trời trong Hàm viện. Mấy cô nha hoàn rất lanh lợi,
Lạc Nguyệt bưng ngay một bàn cờ ra, bản tiên quân cùng vói Mộ Nhược Ngôn chơi cờ
trên bàn đá.
Hai ván, ba ván, nhàm chán vô vị.
Cái gọi là thú vui lúc đánh cờ, ấy chính là cùng với kẻ ngồi đối diện phân tài cao thấp, vì một hai quân cờ được mất, vì hai ba phần cục diện mà ngươi cướp ta tranh, ngươi vui ta giận, ngươi dương dương đắc ý ta cười lạnh âm trầm, lúc thì vò đầu bứt tóc, khi mồ hôi lạnh lã chã tuôn rơi, dùng dằng mãi cũng không hạ được quân cờ xuống, cũng chỉ vì cái thú vui ấy.
Thế nhưng lúc Mộ Nhược Ngôn chơi cờ, mặt mũi hoàn toàn vô cảm. Ngươi ăn của y một quân, y im lìm bất động; y ăn được của ngươi một quân, vẫn bất động im lìm. Thắng hay thua cũng vẫn cứ một bộ mặt đó, bản tiên quân hết sức bực mình.
Năm đó khi còn ở trên thiên đình, bản tiên quân cũng từng đấu với Thiên Xu Tinh quân vài ván, cũng có thấy y bộ dạng thế này đâu. Khi đồn y đến bước đường cùng, đầu mày của Thiên Xu sẽ hơi nhíu lại, thoáng chút trầm ngâm; lúc bản tiên quân sa lầy, y tuy rằng không mừng ra mặt, nhưng ánh mắt đuôi mày, cũng vương chút ý cười. Tuy không biểu hiện gì nhiều, nhưng dù sao cũng có giận có vui. So như vậy, Mộ Nhược Ngôn như khúc gỗ bây giờ lại có chút không giống Thiên Xu của năm xưa.
Ta vẫn còn nhớ rõ, trong một lần ngẫu nhiên gặp tại chỗ của Nam Cực Tiên Ông, bản tiên quân cùng với Thiên Xu chơi cờ, ván cờ đó ta đánh cực kì trắc trở, chốn chốn đều bị vây chặt, dùng cạn khả năng cũng không vãn hồi được cục diện, chỉ có thể âu sầu ném quân cờ xuống, thổn thức nhận thua. Thiên Xu lúc đó đang kẹp một quân cờ trắng giữa hai ngón tay, gõ nhẹ xuống bàn cờ, nghe ta nhận thua xong còn mỉm cười một cái. Y dùng những ngón tay thon dài nhặt quân cờ trên bàn lên, phân ra rồi để vào trong hũ. Thiên Xu bình thường rất lạnh lùng, nhưng nụ cười khi ấy lại không lạnh lẽo chút nào.
Ta đưa mắt nhìn trộm Mộ Nhược Ngôn, Thiên Xu chuyển thế một lần, vậy mà chút hơi ấm trên người cũng “chuyển” mất tiêu. Mộ Nhược Ngôn như cơn gió nhẹ ngày hôm nay vậy, tuy ôn hòa, lại thấm nhuần hơi lạnh.
Mộ Nhược Ngôn ngước đôi mắt trong suốt lên nhìn ta. Bản tiên quân đang ngẫm nghĩ đến xuất thần, bị y nhìn như thế liền có chút hoảng hốt, một lát sau mới đột nhiên bừng tỉnh, vội vàng cười ngượng ngập: “Ta cứ nghĩ đâu đâu ấy, quên cả hạ cờ”. Liền tiện tay đặt quân cờ trong tay xuống, Mộ Nhược Ngôn thấy thế, thần sắc rốt cuộc cũng thay đổi một chút, “Lý công tử cầm quân trắng, sao lại đánh quân đen?”.
Mặt ta hơi nóng, ban nãy mới ăn được của Mộ Nhược Ngôn mấy quân, nhặt cờ xong lại nhìn lén bộ mặt biểu cảm của y, bất giác để tâm trí lãng đãng tận đâu, vẫn cứ nắm lấy quân cờ đen ấy trong tay. Ban nãy nhất thời hồ đồ, đặt luôn nó xuống, ta nhặt quân cờ lên, càng ngập ngượng hơn, “Hồ đồ mất rồi, hồ đồ mất rồi”.
Chỉ nghe thấy từ xa, tiếng ai thong thả nói: “Không phải là hồ đồ, là ‘nhàn ngắm hoa đua nở, gió cũng khiến người say’”.
Bản tiên quân ho khan một tiếng, nhìn bóng áo xanh kia bước vào trong viện, nha hoàn nói: “Thiếu gia, Triệu tiên sinh tới rồi”.
Ta lầm bầm trong bụng: Nói thừa, Triệu tiên snh đã đứng ngay trước mặt rồi, thiếu gia ta còn có thể không biết hắn tới nữa ư? Triệu tiên sinh chắp tay với bản tiên quân, khách khí nói: “Tại hạ mạo muội tới thăm, lại đường đột xông vào trong viện, xin Tam công tử đừng trách”. Ta cũng chỉ đành chắp tay theo hắn, “Triệu tiên sinh khách khí quá rồi, hôm nay có thể được tiên sinh ghé chơi, cầu còn không được”.
Hôm nay Hoành Văn ghé qua, nhất định là vì không nén nổi tò mò mà chạy tới thăm Thiên Xu Tinh quân.
Bản tiên quân phất tay để cho người hầu lui cả xuống, quả nhiên Hoành Văn liền trưng ra đôi mắt chứa vài phần nghi hoặc nhìn Mộ Nhược Ngôn, Mộ Nhược Ngôn đứng dậy, ta lại ho khan một tiếng, “Nhược Ngôn, vị này là Triệu tiên sinh. Triệu tiên sinh, đây là…”.
Hoành Văn khiêm nhường chắp tay chào Thiên Xu: “Tại hạ Triệu Hoành, là mạc trọng trong vương phủ. Ban nãy tự ý xông vào, quấy rầy Ngôn công tử chơi cờ, mong Ngôn công tử đừng trách”. Đôi mắt của Hoành Văn thấp thoáng ý cười, chỉ đăm đăm nhìn Thiên Xu.
Mộ Nhược Ngôn chắp tay đáp lễ, nói: “Triệu công tử khách khí rồi, nếu công tử không chê, cứ gọi thẳng Nhược Ngôn là được, hai chữ công tử này tại hạ vạn lần không dám nhận”.
Hoành Văn nhìn Thiên Xu vốn không có ác ý gì, nhưng hiện giờ Thiên Xu đang trong hoàn cảnh thế này, thấy người ngoài chỉ càng khiến y khổ tâm hơn thôi. Lại có trận gió thổi qua, Mộ Nhược Ngôn khẽ ho mấy tiếng, hẳn là đã dùng hết khí lực mà kiềm cơn ho lại, mới miễn cưỡng cười với Hoành Văn, nói rằng: “Có chút thất lễ, khiến công tử chê cười rồi”.
Hoành Văn nói: “Tại hạ có chút việc tới tìm Tam công tử, không quấy rầy Ngôn công tử nghỉ ngơi nữa”. Hoành Văn nói xong liền âm thầm kéo ống tay áo của ta một cái, bản tiên quân liền theo hắn bước ra xa độ mười bước, thấp giọng hỏi: “Sao ngươi lại qua đây”.
Hoành Văn nhỏ giọng nói bên tai ta: “Nam Minh Đế quân tới rồi, đang ở tiền viện”.
Bản tiên quân sửng sốt, “Hả?”.
Hoành Văn nói: “Suỵt. Ngươi ra tiền viện đi, phải giả bộ không hay biết gì đấy. Khí sắc của Thiên Xu không tốt, ngươi để y về phòng nghỉ ngơi trước đã”.
Ta lập tức quay người lại, Mộ Nhược Ngôn đang ở bên bàn đá nhặt quân cờ. Ta nói: “Ngươi về phòng đọc sách, nghỉ ngơi chốc lát đi, để người hầu dọn được rồi”. Mộ Nhược Ngôn không phản ứng gì, bản tiên quân đành mặc y ở trong viện, sau đó cùng Hoành Văn vội vội vàng vàng chạy ra tiền viện.
Vừa đi ta vừa hỏi Hoành Văn: “Nam Minh Đế quân gan lớn thế sao, dám vác cái danh Nam Quận tướng quân, ngang nhiên vào Đông Quận Vương phủ?”.
Hoành Văn cười nói: “Đan tướng quân si tình lại có mưu có lược, sao lại làm chuyện ngu xuẩn thế được, ngươi ra xem là biết liền”.
Tình hình ở tiền viện khiến bản tiên quân vô cùng kinh hãi.
Hơn mười người mặc đoản y[1] đứng xếp thành hàng trên mảnh đất trống, tổng quản nội viện một tay để sau lưng, một tay vuốt chòm râu dê, đi đi lại lại trước mặt mấy người kia.
[1]: Đoản y: Y phục bó người, vạt trước hoặc vạt sau ngắn. Là y phục dành cho tầng lớp bình dân hoặc binh sĩ thời cổ.
Mười mấy kẻ này là gia đinh mới được tuyển chọn vào trong Đông Quận Vương phủ.
Trong số đó có một kẻ có vóc người cao lớn, khoác trên mình áo nát quần bươm, chân mang đôi giày có gai, chính là Nam Minh Đế quân Đan Thành Lăng.
Bản tiên quân từng tưởng tượng vô số tình huống Đan Thành Lăng lẻn vào Đông Quận Vương phủ, lão già Mệnh Cách nói với ta rằng hắn nửa đêm tới cướp Thiên Xu, ta liền chắc mẩm rằng hắn sẽ xuất hiện khi sắc trời đen kịt, gió nổi trăng mờ. Trèo tường, phá cửa, chui lỗ chó, thi triển kinh công bay lên nóc nhà, sau đó nhẹ nhàng hạ xuống… Nói chung mọi khả năng ta đều đã nghĩ qua, chỉ vạn lần không ngờ hắn lại xuất hiện giữa ban ngày ban mặt, bán mình vào Đông Quận Vương phủ làm gia đinh.
Ngọc Đế ơi là Ngọc Đế, Nam Minh Đế quân thật đúng là kẻ si tình.
Bản tiên quân thở dài.
Nam Minh Đế quân cứ thế mà bán thân vào Vương phủ, tổng quản của Đông Quận Vương phủ cũng cứ thế mà nhận hắn vào.
Thật không biết mắt của lão tổng quản mọc đằng nào nữa.
Bộ dạng của Đan Thành Lăng cũng không khác gì mấy so với khi là Nam Minh Đế quân. Thân cao hơn tám thước, dáng người hùng dũng oai vệ, đôi mày kiếm bay xéo hai mắt sáng quắc tựa diều hâu. Tuy rằng trên mặt lấm bẩn , đầu tóc rối bù , đứng giữa đám người này vẫn hệt như chú lợn lòi lạc bước giữa bầy heo nhà gầy rộc, vừa nhìn đã biết không phải kẻ tầm thường. Loại người như thế sao có thể bán mình làm gia đinh cơ chứ.
Chẳng lẽ do Mệnh Cách an bài?
Tổng quản lấy danh sách ra, bắt đầu ghi ghi chép chép. Bản tiên quân thong thả bước qua, tổng quản lập tức buông tay, khom người nói: “Thỉnh an Tam công tử”.
Ba chữ “Tam công tử” vừa ra khỏi miệng, hai đường nhìn sắc như dao của Đan Thành Lăng lập tức lao về phía bản tiên quân. Ta giả bộ như không nhìn thấy, gật đầu, sau đó nói: “Đều là gia đinh mới vào phủ sao?”
Tổng quản đáp “Đúng vậy”, bản tiên quân ung dung bước tới trước mặt đám đông, giả bộ như đang xem xét từng người một, bước tới bên canh Đan Thành Lăng thì chần chừ chốc lát, ngoài mặt chỉ quan sát, trong lòng lại suy nghĩ. Nam Minh rơi vào trong tay bản tiên quân, để không phụ công Ngọc Đế cậy nhờ, bản tiên quân phải để hắn đi làm việc gì đó thật thấp hèn, để hắn trông thấy được Thiên Xu nhưng không chạm vào, cả hai cùng chịu giày vò mới được.
Mấy vị trí như chẻ củi, đốt lò, canh cửa thông thường thì không có cơ hội bước được chân vào Hàm viện, Nam Minh lại quá uy mãnh, làm không nổi tiểu tư. Nghĩ trước nghĩ sau, chỉ có một công vệc có thể giúp hắn vào trong viện của ta, gặp được mặt tình nhân.
Ta cân nhắc xong xuôi, nói với tổng quản đứng bên cạnh: “Người này, tạm thời để hắn đi đổ dạ hương[2] của các viện đi”.
[2]: Dạ hương: Đổ phân
Buổi tối, bản tiên quân ôm lấy Thiên Xu mà nói, “Gần đây trời lạnh, ta cùng ngươi ngủ chung chăn nhé”.
Bình minh ngày hôm sau, rửa mặt xong xuôi, ta liền giả bộ ra hậu hoa viên hít thở khí trời buổi sớm, tránh tai mắt của mọi người, lẻn vào trong phòng Hoành Văn, thản nhiên bảo hắn lôi chân thân của bản tiên quân ra khỏi thể xác Lý Tư Minh. Hoành Văn rất vui vẻ làm, sau đó tiếp tục vui vẻ theo ta trở về Hàm viện, ẩn mình trên không trung xem trò vui.
Đan Thành Lăng khoác trên mình trang phục của gia đinh, đang đứng ở góc tường trong viện kiểm kê số bô, trong khoảnh khắc khi hắn đưa tay cầm cái bô lên, vô ý ngẩng đầu, đúng lúc trông thấy một bóng người đơn bạc yếu ớt đứng dưới mái hiên. Người kia như cảm thấy điều gì, cũng xoay người lại, vào giây phút khi bốn mắt chạm nhau, cả trời đất như ngưng kết lại.
Lương Sơn Bá và Chúc Anh Đài gặp gỡ tại ban công[3].
[3]: Nguyên văn là “hội tại lâu thai”. Lấy ý từ Lâu Thai Hội – một phân cảnh rất quan trọng trong câu chuyện Lương Sơn Bá – Chúc Anh Đài.
Bản tiên quân vẫn còn nhớ như in, năm xưa khi ta còn làm người phàm, có một gã thư sinh nghèo kiết hủ lậu, đi thi nhiều lần mà vẫn không đỗ đạt công danh đã nhờ người dâng mấy khúc thơ chua xót não nề cho ta xem, nhằm thể hiện tài hoa của hắn. Lúc đó ta vẫn còn chưa bị tổn thương tình cảm, đọc mấy bài thơ oán hận sầu thương đó cũng chỉ để vui vẻ nhất thời, xong cũng liền thôi. Chỉ nhớ có hai câu tả về đôi mắt của một người oán phụ trong khuê phòng như thế này: “Cận khán thu thủy viễn khán sơn, đường hoa dạ trọng lộ san san”. Ta đọc mà kinh hãi cả người, nhìn gần một chút thì giống nước, nhìn xa một chút lại tựa núi non, nửa đêm trông thì lại hao hao mấy đóa hải đường sương đang long tong nhỏ giọt, một đôi mắt như thế mà lại xuất hiện trên mặt người, vậy thì đáng sợ đến nhường nào.
Ta thành thật nói suy nghĩ của mình ra, người thay mặt dâng thơ không nói lời nào liền đi mất, còn đem nguyên văn lời của ta truyền đạt lại cho kẻ viết thơ nghe. Có người nói rằng gã nghèo kiết hủ lậu đó đã mở tập thơ ra, ngửa cổ điên dại cười ba tiếng, một ngụm máu tươi phun lên trên giấy, phất áo mà đi. Lại nghe đồn rằng hắn đã vào rừng sâu núi thẳm, hoặc tu đạo hoặc quy y cửa phật mất rồi.
Giờ nhớ lại, năm đó quả thật ta đã gây ra tội ác, bởi vì dốt nát bất tài, đã ép một văn nhân có tài phải vào chốn rừng sâu núi thẳm. Hai câu thơ ấy tả sâu sắc đến nhường nào, đặt nó vào trong tình này cảnh này, lại thích hợp biết bao nhiêu.
Đôi mắt của Thiên Xu như dòng nước mùa thu nhìn gần, hai mắt của Nam Minh lại tựa đồi trọc nhìn xa. Mái hiên bên này chất đầy những thống khổ bi ai, những nhớ nhung vui sướng nói hoài không hết, tình ý miên man dàn trải, chái nhà bên kia lại nặng trình trịch những thương với nhớ, trụi thùi lủi những ái với tình.
Ngóng, cũng chỉ ngóng một cái thế mà thôi. Đan Thành Lăng xách bô lên, mặt không đổi sắc, bước ra khỏi viện, Mộ Nhược Ngôn cố làm vẻ điềm tĩnh mà quay đầu lại, gương mặt lại không khỏi trắng thêm một chút, vừa bước chân đi thì thân thể cũng khẽ run.
Hoành Văn nói: “Đôi tiểu uyên ương bị gậy đánh này quả thực đáng thương”.
Ta nói: “Cái gậy to tướng đã đánh uyên ương cũng khiến người ta căm phẫn quá còn gì”.
Hoành Văn há miệng ngáp một cái, “Nam Minh Đế quân làm gì có tư cách trách ngươi, năm xưa hắn làm gậy đánh uyên ương, xuống tay nặng chẳng ai bì được”. Sau đó liếc xéo nhìn ta, “Ngươi vẫn còn ghi hận chuyện của Thanh Đồng và Chi Lan đúng không”.
Ta cười lạnh, “Ta làm sao quên nổi”.
Thanh Đồng là một tiểu đồng đưa tin dưới trướng Đông Hoa Đế quân. Giao tình giữa Đông Hoa Đế quân và Hoành Văn rất tốt, thường đưa kèm luôn thiệp mời cho ta, mời ta tới chơi vài ván cờ, uống vài chén trà những khi rảnh rỗi. Những lần ấy đều là do Thanh Đồng đưa tin, tới tới lui lui mãi cũng thành quen. Thanh Đồng vốn thông minh lanh lợi, vì đi truyền tin có thể đi lại khắp các ngóc ngách trên thiên đình, ai ngờ người này lại có tư tình với tiểu tiên nữ Chi Lan của điện Phi Hương, thường xuyên qua lại.
Hai người động phàm tình, làm một số chuyện mà ở trên thiên đình không ai nên phạm phải. Có một ngày lén lút gặp nhau, lại bị thiên binh làm nhiệm vụ hôm đó bắt ngay tại trận, giải thẳng tới Ngọc Đế. Vốn dĩ có Đông Hoa Đế quân, Hoành Văn cùng ta đứng ra nói giúp, xem ý tứ của Ngọc Đế, cũng chỉ định phạt qua loa một chút, biếm xuống trần gian là xong chuyện. Nhưng chẳng ngờ Nam Minh Đế quân lại gạt đám đông bước ra, nói thiên đình vốn có quy củ, không thể vì tình cảm mà nhân nhượng được, cần dựa theo đúng luật trời mà nghiêm trị.
Hắn đứng giữa điện Linh Tiêu, hiên ngang trần thuật. Ngọc Đế giao việc này cho Nam Minh xử trí. Nam Minh liền sai người áp giải Thanh Đồng và Chi Lan lên Tru Tiên Đài, chém đứt tiên căn, ném vào Súc Sinh đạo. Nếu Thanh Đồng là con thỏ ranh mãnh, thì Chi Lan nhất định sẽ là hổ dữ. Chi Lan là kiến hôi, thì Thanh Đồng sẽ là tê tê. Thanh Đồng là tôm là tép, vậy Chi Lan sẽ là con cá nuốt gọn tôm tép vào bụng. Cứ như thế, tàn sát hủy hoại nhau đến chín kiếp mới được làm người, nhưng vẫn sẽ là thù địch, số mệnh không có nhân duyên.
Khi đó Nam Minh Đế quân không dám đắc tội với Đông Hoa và Hoành Văn, liền gán cho ta một cái tội danh ngay trên Linh Tiêu bảo điện, gọi là tội mê hoặc tiếp tay. Nói rằng ta không có tu vi, gốc phàm chưa hết, ngấm ngầm ám chỉ với Ngọc Đế rằng bản tiên quân đã xúi giục Thanh Đồng đi chòng ghẹo Chi Lan.
Có ai ngờ được, một vị Nam Minh Đế quân như thế lại có tư tình với Thiên Xu Tinh quân. Hắn lưu lạc tới nông nỗi hôm nay, bản tiên quân không thể không nói với hắn một câu: Báo ứng tới rất nhanh.
Nam Minh ơi Nam Minh, ngươi cùng Thiên Xu đưa mắt ngóng trông nhau thực cảm động lòng người. Năm xưa khi ngươi hạ lệnh ném Thanh Đồng và Chi Lan vào Súc Sinh đạo, liệu từng nghĩ sẽ có ngày này?
Ta nói: “Nhớ tới Thanh Đồng và Chi Lan, liền cảm thấy Ngọc Đế phạt Nam Minh Đế quân như thế này cũng rất công bằng. Nhưng Thiên Xu chưa từng làm chuyện gì thất đức, vậy mà hằng ngày phải chịu dằn vặt hơn Nam Minh vô số, cũng quá bất công”.
Hoành Văn nói: “Ngươi nói những câu này lại không sợ Ngọc Đế nghe thấy được”.
Kẻ trước người sau bay về phòng Hoành Văn, bản tiên quân trở lại là Lý Tư Minh, Hoành Văn phải tới chỗ Đông Quận Vương trình diện một phen, bản tiên quân đương nhiên trở về Hàm viện. Mộ Nhược Ngôn ngồi ở trong phòng, tay nắm chặt một quyển sách, ánh mắt lại không đặt lên sách, chẳng biết đang ngóng về phương nào, người như đi vào cõi mộng.
Bản tiên quân bước lên phía trước, nói: “Nhược Ngôn vẻ mặt ngẩn ngơ, không biết là nhớ quê nhà, hay nhớ đến ai?”.
Trên mặt Mộ Nhược Ngôn viết là nhớ người, ngoài miệng lại nói: “Cả ngày ngồi rảnh rỗi,ngẫu nhiên nhớ lại chút chuyện xưa”.
Ta đứng đối diện với y,trầm giọng nói : “À, hẳn là chuyện xưa với cố nhân năm đó rồi”. Mộ Nhược Ngôn không nói lời nào, bản tiên quân đặt một bàn tay lên bờ vai gầy guộc của Mộ Nhược Ngôn, tay còn lại rút quyển sách trong tay y ra, không ngờ lại là tập thơ Cao Thường Thị[4] .
[4]: Tập thơ Cao Thường Thị do nhà thơ Cao Thích thời Đường biên soạn.
Phòng ngủ của Lý Tư Minh là một gian phòng kép được ngăn đôi bởi một tấm bình phong chạm rỗng làm từ gỗ đàn hương, bên trong đặt giường màn, gian ngoài có chút đồ cổ, bày án thư[5], có thể coi như thư phòng mà sử dụng. Sau khi bản tiên quân chuyển Mộ Nhược Ngôn vào nơi này rồi, liền cố ý đặt vài chồng sách lên bàn, không thơ khổ não thì cũng phú thê lương, tạo điều kiện cho y quằn quại vì tình.
[5]: Án thư: Bàn hẹp và dài kiểu cổ, thời xưa dùng để đọc sách và viết.
Ta vốn nghĩ rằng, mỗi ngày nhìn Thiên Xu giấu một quyển thơ trong tay áo, giữ lệ trên bờ mi mà nhìn mây trôi ngoài cửa sổ, nhất định sẽ là một khung cảnh khiến người ta thương tiếc không thôi. Nhưng y lại chẳng nhận cái tình ý này của ta, mấy ngày trước, không biết Thiên Xu mò được từ xó xỉnh nào một quyển Kinh Dịch, lăm lăm một cây bút lông sói nhỏ trên tay, vừa đọc lại vừa viết lời bình. Kinh Dịch thì có gì để bình với luận? Trên đường trên phố đầy sạp hàng của thầy bói nào chả bày một quyển. Ta cứ nhìn đám chữ tiểu triện[6] được phê chi chít trên trang sách kia là răng lại bắt đầu ê ẩm. Nhưng ta lại nghĩ, y thích đọc sách thì để y đọc đi, còn tốt hơn là treo cổ với nhảy hồ. Tối qua, đến tận lúc bản tiên quân ngồi xuống giường, Thiên Xu mới buông sách đi ngủ. Khó khăn lắm mới đổi sang đọc thơ, ai dè lại là Cao Thích.
[6]: Tiểu triện: Là Hán tự thống nhất dùng để viết sách. Ra đời sau khi Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung Hoa, tiểu triện lưu hành tới tận những năm cuối đời Tây Hán (khoảng năm thứ 8 trước Công Nguyên).
Ta nhíu chặt đầu mày săm soi bìa sách, đột nhiên tỉnh ngộ. Đúng rồi, người trong mộng của y – Đan Thành Lăng hiện giờ là Tướng quân, vì vậy mới đọc thơ chiến tranh trong Cao Thường Thị. Nhìn những chữ những câu ngập trong đao kiếm, gió lửa mù trời, tưởng tượng đến người giữa chiến trường ánh đao lửa khói. Ban nãy mới trông thấy cảnh Nam Minh xách bô trong sân, giờ mới cần phải đọc hai ba câu thơ để ôn lại một lần bộ dạng dũng mãnh thật sự của người trong mộng.
Chút tâm tư cỏn con ấy, ta liếc mắt đã nhìn thấu ngươi rồi. Bản tiên quân âm thầm cười một tiếng, sau đó trả lại sách cho y, “Ngươi đã là người của bản công tử, chuyện cũ người xưa phải quên cho bằng hết, từ nay về sau, chỉ được phép nhớ một người là bản công tử, cùng với những chuyện xảy ra giữa hai ta thôi”.
Thiên Xu nói: “Chuyện ấy khó mà làm được”.
Ta không ngờ được y lại dám phản đối, nói: “Cái gì?”.
Mộ Nhược Ngôn gấp quyển sách lại, ngẩng xéo đầu, đôi mắt trong trẻo lạnh lẽo liếc nhìn ta, nói: “Trái tim không theo ý bản thân, lại càng chẳng theo ý người ngoài, sao có thể nói không nhớ liền không nhớ. Nếu ta đồng ý, vậy không phải nói dối rồi sao?”.
Không ngờ đứng trước mặt ta mà Mộ Nhược Ngôn lại nói ra được những lời bén nhọn như thế. Cái thứ gọi là “tình” này cũng thật lợi hại, tình nhân tới rồi, người cũng thay đổi.
Ta cũng không cho đó là ngang ngược, cười một tiếng, thể hiện sự rông lượng của bản thân. Bản tiên quân kéo ghế ra, ngồi xuống trước bàn, rót một chén trà để uống, Mộ Nhược Ngôn đưa mắt liếc nhìn ống tay áo trái của ta một cái, sắc mặt thoáng chút hoài nghi. Lúc này ta mới nhớ ra cái món đồ chơi cưng cứng trong ống tay áo là thứ định mang tới cho Thiên Xu, bèn vội vàng lấy ra, dựng thẳng lên bàn.
Ống trúc cao nửa thước, vỏ ngoài xanh biếc, trong ngoài đều được đánh cho nhẵn bóng. Ta mỉm cười, hỏi Mộ Nhược Ngôn: “Có thích không?”.
Mộ Nhược Ngôn nhìn ngắm nó một lúc lâu, vẻ mặt có chút miễn cưỡng, nói: “Cái ống bút này quả thực rất giản dị, rất đáng yêu”.
Ta đẩy nó lại gần Mộ Nhược Ngôn một chút, “Không phải ống cắm bút đâu, ngươi nhìn kĩ một chút đi”.
Vẻ mặt Mộ Nhược Ngôn càng miễn cưỡng hơn, lại tỉ mỉ ngắm nghía một hồi, trầm ngâm không đáp. Ta dịu dàng cười, nói: “Mấy ngày nay thấy ngươi đọc Kinh Dịch chán rồi thì có thể bói một quẻ, ngươi có thích cái ống gieo quẻ này không?”.
Mộ Nhược Ngôn cứng cả người, nhìn ống trúc trên bàn. Bản tiên quân rất đắc ý, từ xưa đến nay đã tặng đồ là luôn theo tôn chỉ: Đánh rắn phải dập đầu. Nhìn bộ dạng Thiên Xu, nhất định đang cảm động rồi.
Ta lại dịu giọng nói: “Nếu ngươi còn muốn phê bát tự[7] cho người khác, từ trên xuống dưới vương phủ này, ngươi muốn phê cho kẻ nào ta sẽ lôi kẻ ấy về cho ngươi”. Mộ Nhược Ngôn há miệng định nói cái gì đó, rồi lại vén ống tay áo che miệng, bắt đầu ho khù khụ, ho được vài tiếng rồi mới đứt quãng nói: “Đa, đa tạ công tử đã hao tâm… ta chỉ thỉnh thoảng đọc chơi thôi, chứ không…”.
[7]: Bát tự: Tám chữ gồm giờ ngày tháng năm sinh viết theo Thiên Can và Địa chỉ, là một cách xem số mệnh của Trung Quốc.
Bản tiên quân đứng dậy, vuốt lưng cho y, bưng chén trà tới, cho y uống vài hớp, “Ta cũng chỉ tiện tay làm thôi, cũng không có tình có ý gì bắt ngươi phải gánh đâu. Ngươi thích nó thì cứ nhận lấy, dùng giải sầu là được rồi”.
Y uống vài ngụm nước trà, cơn ho cũng dừng lại. Ta đặt chén trà xuống bàn, Mộ Nhược Ngôn nhìn chén trà đó, khổ sở nở một nụ cười.
Ta nhặt quyển sách thơ rơi trên nền đất lên, đặt xuống bàn, trong bụng rỗng tuếch đấy, nhưng vẫn phải cố kiếm thứ gì mà nói: “Không ngờ ngươi lại đọc cái này. Ta vẫn cứ nghĩ ngươi thích đọc văn thơ của Vương Ma Cật[8] với Mạnh Tương Dương[9]”.
[8]: Vương Duy (701-761), tự là Ma Cật, là người huyện Kỳ, Thái Nguyên, là đại biểu cho những thi nhân thời Thịnh Đường người công nhận là tổ sư văn học của thời kì Khai Nguyên, Thiên Bảo.
[9]: Mạnh Hạo Nhiên (689-740), là nhà thơ thời Đường, là người Tương Dương , thế nhân gọi ông là Mạnh Tương Dương.
Tuy rằng lúc ở trên thiên đình, mỗi lần có chuyện gì cần động chạm đến văn chương giấy mực, ví như hành lệnh[10], liên cú[11], hiến thơ các loại, đều phải nhờ vào Hoành văn mới qua được ải, nhưng thật ra lúc làm người phàm ta cũng đã từng đọc thơ ca, cũng có thể cùng người khác đàm đạo dăm ba câu.
[10]: Hành lệnh: Còn gọi là chơi tửu lệnh, là một trò chơi góp vui trong tiệc rượu, tương truyền xuất hiện lần đầu tiên vào thời Tây Chu, chính thức trở nên phổ biến vào đời Tùy Đường. Hoạt động này rất phổ biến trong tầng lớp sĩ phu.
[11]: Liên cú: Một trong những hình thức làm thơ thời xưa, gồm hai hay nhiều người, mỗi người làm một câu rồi ghép thành bài thơ.
Mộ Nhược Ngôn nói: “Thơ Vương và Thơ Mạnh tuy rằng cao xa thanh bạch, nhưng thật ra một vị là phú quý sinh nhàn, còn một vị là nhàn mong phú quý. Chẳng bằng Cao Thích, trong lòng mưu cầu danh lợi, ngang nhiên thẳng thắn toan tính, lại thoải mái vô cùng”.
Ta nói: “Cũng đúng, có điều người này tuy miệng thì nói rất hay, nhưng làm thì chẳng được bao nhiêu, thơ viết thì âm vang đấy, trên chiến trường lại không làm nên trò trống gì. Trên đời này, kẻ nói được làm được có mấy người? Phần lớn đều như Cao công mà thôi”. Sau đó ta vui vẻ quan sát đôi mắt của Mộ Nhược Ngôn, đợi y bàn luận sâu hơn, nhưng đối phương lại tránh ánh mắt của ta, không nói gì thêm nữa, cầm quyển sách trên bàn lên, đặt về lại án thư.
Ta có phần chán nản, gượng gạo nói thêm vài câu khác, sau đó bèn lê bước ra khỏi phòng.
Đông Quận Vương phủ mấy ngày gần đây đang do dự giữa vùng lên tự lập hay án binh bất động chờ thời, các cuộc nghị sự kéo dài liên miên không dứt. Hoành Văn bị trói chân cả ngày trời, không có được tí thời gian rảnh rỗi nào. Lúc ta đang luẩn quẩn trong viện, gặp phải Đan Thành Lăng tới bảy tám lần, hắn khi thì đang quét sân, khi thì trừ cỏ dại. Tâm tư của hắn cũng thật thâm trầm, hễ thấy bản tiên quân liền thỉnh an cực kì cung kính, ánh mắt chẳng để lộ nửa phần khác lạ. Hại ta cả ngày trời đều phải vùi đầu suy nghĩ, buổi tối nên lấy đao đâm vào chỗ nào của hắn thì thích hợp.
Đến khi trời đã về chiều, ta rốt cuộc cũng đã trông thấy Hoành Văn, vẻ mặt hắn cực kì uể oải, thấp giọng nói: “Cái ông cha quận vương đó của ngươi quả là lằng nhằng có hạng, ngươi còn phải ở lại chỗ này thêm mấy ngày nữa. Ta chỉ sợ mình cứ hầu hắn dài dòng như thế, sớm muộn gì cũng có ngày không chịu nổi, dùng thiên lôi bổ cho hắn chết tươi”.
Ta cười làm lành, nói: “Ngươi đừng nóng, ân tình ta nợ ngươi chờ về thiên đình sẽ từ từ trả, buổi tối hôm nay ta đâm Nam Minh cho ngươi xem giải sầu, được không?”.
Hoành Văn nói: “Cả ngày hôm nay ngươi lại suy nghĩ xem nên đâm vào chỗ nào trên người Nam Minh chứ gì?”. Sau đó hắn dán sát lại bên tai bản tiên quân mà nói: “Vậy hôm nay ta sẽ tới phòng ngủ của ngươi chờ sẵn”.
Nghe hắn nói xong bản tiên quân liền thấy ngứa ngáy cả người, cũng thấp giọng đáp: “Ngươi nói xem, ta đâm Nam Minh chỗ nào thì tốt”.
Hoành Văn nói: “Tùy ngươi, thích đâm đâu thì đâm, đâm vào tim cũng được, dù sao hắn cũng không chết nổi, còn Mệnh Cách cơ mà. Lão không xử được thì còn Ngọc Đế, ngươi chỉ cần lo hạ đao là được”. Bản tiên quân nghe câu đó xong lại càng nóng ruột hơn, lao về Hàm viện như bay, chân không chạm đất.
Đêm đến, ta ngồi bên mép giường, liếc mắt nhìn Hoành Văn đang khoan thai thong thả bên giường, nuốt ực một ngụm nước miếng, sau đó kiên trì vượt khó, nói với con người đang đọc sách dưới ánh đèn rằng: “Nhược Ngôn, cũng không còn sớm, tới đây ngủ cùng ta đi”.
Lão già Mệnh Cách đã dặn đi dặn lại rằng, mỗi đêm trước khi đi ngủ, ta nhất định phải nói câu này với Thiên Xu, ta đây cũng là bị người khác ép bức thôi, có đúng không nào? Thế nên Hoành Văn à, ngươi có thể đừng trưng cái bộ mặt rất… không hiền hậu đó ra được không?
Mộ Nhược Ngôn nghe câu nói đó cũng đã thành quen, thổi tắt nến ở gian ngoài, sau đó đứng đờ đẫn bên giường, cởi bỏ áo ngoài, tháo phát quan ra. Thân thể chỉ khoác một lớp áo trong màu trắng thuần, dưới ánh nến trông lại gầy mỏng manh đến lạ. Y đưa mắt nhìn giường, thân thể hơi cứng, nhưng chậm rãi lật chăn ra, nằm xuống.
Trên giường chỉ độc một tấm chăn mỏng, bắt đầu từ buổi tối ngày hôm qua, bản tiên quân phải cùng Thiên Xu chung chăn mà ngủ.
Hoành Văn dựa người vào trụ giường nói: “Ngươi không ngủ à?”.
Toàn thân ta như đang bị cả đám như kim mảnh như lông bò đâm chi chít, không thể nào đứng trước mặt Thiên Xu lại quay ra nói chuyện với không khí được. Thưa thì không ổn, cười cũng chẳng xong, ta đành vác cái mặt mo mà cởi áo ngoài, xốc chăn lên, nhoài người thổi tắt cây nến trước giường, sau đó duổi thẳng người ra ngủ.
Hoàn thành được cái quá trình này thật gian nan.
Mộ Nhược Ngôn nhớ nhung tới Đan Thành Lăng, nghe tiếng thở cũng biết y đang trằn trọc, thao thức không yên. Hoành Văn lôi ta ra khỏi xác Lý Tư Minh, cười khẽ, nói rằng: “Đêm đêm cùng Thiên Xu chung gối cùng giường, có nảy sinh tình ý gì không đó”.
Ta gượng cười: “Không phải vì Nam Minh đã tới, ta phải diễn cho tròn vở kịch này sao? Hôm qua mới bắt đầu ngủ chung thôi mà, chắc qua đêm nay không cần nữa”.
Hoành Văn nói: “Cái câu nói trước khi ngủ ấy, nghe thân thiết nhỉ”.
Da mặt ta run bần bật, đáp: “Mệnh Cách dạy ta đấy, không nói không được”.
Phỏng chừng Hoành Văn cảm thấy chế nhạo ta thế là đủ rồi, liền không nói thêm gì nữa. Cùng ngồi trong phòng, Hoành Văn ngáp một cái, ta nói: “Cả ngày hôm nay ngươi đã vất vả rồi, cũng nên đi nghỉ sớm,hay ta cho ngươi mượn xác Lý Tư Minh, ngươi lên giường nằm chút đi”.
Hoành Văn biếng nhác đáp lại: “Thôi thôi, cái giường đó ngươi đi mà nằm cùng Thiên Xu ấy, đừng để xảy ra thêm chuyện gì rắc rối. Ta cũng sợ nhập vào thì dễ, xuất ra lại khó”.
Hai ta gà gật trước bàn, nghỉ ngơi trong chốc lát, lúc sắp canh ba, tiếng gió thổi vi vu, có một bóng đen quét qua song cửa sổ. Một lưỡi dao mỏng len qua khe cửa, đẩy then cài ra, hai cánh cửa im lặng tách ra một khe nhỏ, một luồn gió đêm thổi qua đó, bản tiên quân cùng Hoành Văn tức khắc tỉnh cả người. Nhìn bóng đen kia khẽ khàng lẻn vào phòng. Đan tướng quân, rốt cuộc ngươi cũng chịu ra tay rồi!!!
Bóng đen khom chân mà đi, lần theo ánh trăng mò vào trong phòng , tiếp cận giường ngủ. Trong bóng đêm, binh khí trong tay hắn lấp lóe thứ ánh sáng lạnh người, ta và Hoành Văn đứng bên vách ngăn, bản tiên quân không nhịn được mới nói: “Một cái giường có hai người ngủ , trời thì tối như hũ nút thế này, làm sao hắn phân biệt được ai là Thiên Xu ai là ta? Lăm lăm vũ khí như thế mà không sợ đâm nhầm người sao”.
Lời còn đang ra khỏi miệng Nam Minh đã đứng trước giường, trong tay đột nhiên sang rực, thì ra là môt viên dạ minh châu to cỡ quả trứng chim bồ câu. Tay còn lại dùng mũi đao vạch màn giường ra, Thiên Xu đang ngủ ở phía giường mà hắn đứng, Nam Minh cầm dạ minh châu soi một cái, liền trông thấy Mộ Nhược Ngôn.
Ta cùng Hoành Văn phiêu đãng tới đầu giường thò cổ ra nìn, Mộ Nhược Ngôn nằm ở trong màn cứ như có cảm ứng, đột nhiên ngồi bật dậy, trong ánh sáng của dạ minh châu, đôi uyên ương bốn mắt nhìn nhau, nhất thời mải miết đến ngây người. Hai người này đúng là chẳng sợ bản tiên quân, tức Lý tam công tử đang ngủ ngay bên cạnh đột nhiên tỉnh giấc.
Hoành Văn nói: “Cũng đến phiên ngươi rồi, còn không về mà bò dậy đi?”.
Ta nói: “Không vội không vội”.
Một tay Đan Thành Lăng nắm chặt lấy cổ tay Mộ Nhược Ngôn, kéo y xuống giường, tay còn lại giơ cao đoản đao sắc nhọn, nhắm về phía trong giường, đâm thẳng xuống, nhưng lại bị Mộ Nhược Ngôn giơ tay cản lại: “Đừng làm tổn hại đến tính mạng của hắn”.
Đan Thành Lăng nói: “Vì sao?”. Hai chữ rét lạnh như nghìn vạn mũi đao băng.
Sao mà dài dòng thế!!! Hai vị, chạy trốn quan trọng hơn.
Nhưng mà hai vị này lại không muốn chạy, cứ thích dông dài. Mộ Nhược Ngôn nói: “Hắn chưa làm gì ta cả, cũng không phải là người xấu”. giọng điệu nhẹ như không, cứ như đang nói về một cây cải trắng.
Hoành Văn nói: “Thiên Xu đối với ngươi thật là… rất có tình nha”.
Đan Thành Lăng lạnh lùng nói: “Ngươi không muốn ta động thủ, là vì lo lắng cho cái mạng của hắn, hay là vì sợ làm bẩn đao của ta?”.
Thiên Xu lặng yên, không nói một lời.
Đan Thành Lăng cười lạnh một tiếng, sau đó đột nhiên cao giọng nói: “Trước giường ồn ào cả buổi như thế, các hạ tuy rằng giấu đi hơi thở, kì thực đã sớm tỉnh rồi. Sao lại không ngồi dậy mà nói mấy câu?”.
Đến lúc bản tiên quân lên sân khấu rồi đây. Ta nhập vào xác Lý Tư Minh, điều hòa hơi thở.
Cao nhân đối đầu, khí thế phải đầy đủ, vững vàng. Cho nên ta thong thả mở hai mắt ra, chậm rãi ngồi dậy, từ từ mò đá lửa, đốt nến lên, lại ung dung bước vòng ra từ bên kia của cái giường.
Thong thả ngẫm nghĩ xem, ban nãy ta giấu cây đao thép ở chỗ nào.
Dạ minh châu đã bị Đan Thành Lăng nhét vào trong ngực, bàn tay trải nắm chặt lấy cổ tay Mộ Nhược Ngôn, bản tiên quân cùng hai người đối diện đưa mắt nhìn nhau, có vui, có buồn, cũng có ưu tư.
Ta đối xử với Thiên Xu như thế, y lại thay hắn chặn một đao lấy mạng của ta, đây là vui.
Ta đối xử với Thiên Xu như thế, y lại nói bản tiên quân không phải người xấu, nếu không phải trình độ diễn kịch của ta chưa đủ điêu luyện, thì là đầu óc của y có vấn đê, đây là buồn.
Còn về cái sự ưu tư…
Hoành Văn đứng sau lưng ta, nói: “Đao của ngươi đang dựng đứng trong cái bình hoa lớn chỗ góc tường ấy”.
Bản tiên quân lập tức nói: “Các hạ vào phòng lúc nửa đêm, ta lại không kịp thời nghênh đón, thật thất lễ. Ban ngày, công việc của gia đinh vừa nặng vừa dơ bẩn lại tạp nham, quả thật đã khiến Đan tướng quân chịu ấm ức, trong lòng ta vô cùng xấu hổ. Nhưng không biết Đan tướng quân nửa đêm nửa hôm, đem người của ta kéo xuống khỏi giường, là định làm gì?”.
Ta cười mỉn, chắp tay, thong thả lại gần cái bình hoa, lôi cây trường đao không vỏ ra.
Đan Thành Lăng nói: “Vốn ta cũng không định xuống tay, dùng lưỡi đao này lấy tính mệnh của ngươi chỉ tổ làm bẩn nó. Thôi được, coi như cho tên súc sinh nhà ngươi cơ hội giãy giụa trước khi chết”. Hắn quét mắt nhìn ta, vô cùng khinh miệt, “Hơn mười tên hộ vệ bên ngoài cửa đều ngã hết rồi, có vẻ không trông cậy được gì nữa đâu”.
Ta nói: “À”.
Không trông cậy được gì? Có Hoành Văn ở đây, dù bị Hắc Bạch Vô Thường tóm cổ ta cũng dư sức đòi về được, huống gì chỉ là bị đánh cho ngất xỉu. Ta nói: “Chúng ta ra vườn đọ sức chứ?”.
Đan Tướng Quân sải bước như bay, vui vẻ rời phòng, bản tiên quân thừa dịp liếc Mộ Nhược Ngôn một cái, sắc mặt y trắng bệch, xoay người, cũng bước ra vườn, không nhìn ta lấy một lần.
Dưới vầng trăng sáng vằng vặc, bản tiên quân đứng trong sân nói một câu “Đắc tội”, sau đó quát ầm lên: “NGƯỜI ĐÂU!!!”. Hơn mười gã hộ vệ lao ra khỏi bóng đêm, bao vây Thiên Xu và Nam Minh. Binh khí chạm nhau, “keng” một tiếng, ánh kim loại loang loáng giao nhau.
Ta đứng ở ngoài vòng chiến, giương mắt coi náo nhiệt, chỉ cần đợi lúc Nam Minh run tay, lao ra cho hắn một đao là êm chuyện.
Hoành Văn vừa mới ra khỏi phòng,sau khi cứu tỉnh hộ vệ, liền đứng ở trong sân, từ xa quan sát cuộc chiến, nói rằng: “Chiêu này của ngươi thật là thất đức”.
Ta cũng chỉ bất đắc dĩ thôi mà. Bản tiên quân lúc này đang nhập xác người phàm, làm sao mà địch nổi mãnh tướng oai phong hùng dũng như Đan Thành Lăng, chỉ có cách dùng hộ vệ kéo ngã hắn, sau đó dùng dao đâm hắn mới đảm bảo được.
Bản tiên quân vốn đã dặn dò các hộ vệ không được làm Mộ Nhược Ngôn bị thương, đao kiếm chỉ có thể nhào vào “thăm hỏi” thân thể Đan Thành Lăng, rất là gò bó. Đan Thành Lăng một mình đọ với mấy mình, ấy thế mà vẫn nhanh nhẹn còn thừa. Vừa chống đỡ vừa lùi lại, hắn đã sớm thăm dò cẩn thận đường rút, ra khỏi Hàm viện, cùng Mộ Nhược Ngôn lách qua cánh cửa nguyệt[12] của hậu hoa viên, sau hòn non bộ có một bức tường, mặt ngoài là một con hẻm không người. Hộ vệ đang đi tuần tra trong chính viện nghe thấy tiếng động liền vội vàng chạy tới, người càng lúc càng nhiều. Đan Thành Lăng giật lùi liên tục, hết đánh bên trái lại chặn bên phải, dần dần lâm vào cảnh lực bất tòng tâm. Lúc hắn lùi đến bức tường kia, trên người đã có bốn năm vết thương nhẹ.
[12]: Cửa nguyệt: Là một loại cửa có lối đi hình tròn (trông giống hình trăng tròn) ở giữa, phía trên có lợp ngói. Cửa nguyệt không có tác dụng đóng mở mà giữ vai trò là một vật bài trí, điểm tô cho kiến trúc.
Bản tiên quân nhắm chuẩn một khắc khi Đan Thành Lăng sơ sẩy, nắm chặt lấy trường đao, lách người vào đám đông.
Đan Thành Lăng tay phải vung đao cản vài mũi trường thương, tay trái vung chưởng đánh lùi đợt tấn công lao tới từ bên kia. Phía trước ngực mở cửa đón chào mũi đao của bản tiên quân nhắm thẳng, rất nhân đạo mà lao về phía ngực phải của hắn, năm tấc… bốn tấc… ba tấc. Đến khi chỉ còn hai tấc nữa thì có một bóng người chợt lóe lên trước mắt, phần ngực bản tiên quân sao đột nhiên lạnh toát.
Ta kinh ngạc cúi đầu, là một cây trường thương, mũi thương đâm vào ngực trái của ta, đầu kia của cán thương là một đôi tay, gầy gò, dài mảnh, dường như chẳng có chút sức lực gì đáng kể, ta đã từng nắm qua rồi, cảm giác xương xương.
Cũng trong khoảnh khắc thảng thốt ấy, một luồng gió mạnh vù vù lao tới, ánh bạc lóe lên, hình như là lưỡi đao mỏng của Nam Minh.
Cảm giác lạnh lẽo giờ đã “trèo” lên cổ.
Mệnh cách lại viết tắt trong sổ thiên mệnh rồi…
Keng một tiếng, cảm giác mát lạnh kia lại biến mất. Đao mỏng của Đường Thành Lăng kề ngang cổ ta, bất động, bởi vì một thanh trường kiếm phủ ngập ánh xanh đang gác trên cổ Mộ Nhược Ngôn, trường sam màu lam nhạt hơi lay động trong gió, “Ngươi thả hắn ra, ta sẽ để ngươi và Mộ Nhược Ngôn bình an vô sự ra khỏi vương phủ”. Hoành Văn à, làm người thì không nên huênh hoang khoác lác quá, ngươi hiện thân cũng không sao, nhưng cái thanh kiếm ấy có vẻ sáng hơi quá rồi đấy.
Đám hộ vệ nắm binh khí trong tay, không dám làm bừa, Đan Thành Lăng nhướng mày nhìn Hoành Văn, “Các hạ có thể làm chủ chuyện này được sao?”.
Hoành Văn nói: “Đương nhiên có thể”. Sau đó quay đầu, nói với đám hộ vệ: “Bỏ binh phí ngay tại chỗ, sau đó lùi ra bên ngoài hoa viên”.
Triệu tiên sinh đang là tâm phúc của Đông Quận Vương, đám hộ vệ cũng coi như nhanh trí, buông binh khí xuống, lùi về phía cửa nguyệt.
Lưỡi đao rời khỏi cổ của bản tiên quân, Hoành Văn thu tay, cũng rút kiếm khỏi cổ Mộ Nhược Ngôn, mềm giọng nói: “Ngôn công tử, mũi thương cũng đã đâm vào rồi, cũng nên buông tay ra rồi nhỉ?”.
Hai tay nắm cán thương buông lỏng, Hoành Văn dùng một tay đỡ lấy lưng ta, thấp giọng nói: “Còn gượng được đúng không?”. Trong khoảnh khắc đó, vẻ mặt hắn rất chi là đồng cảm.
Ta hít một hơi lạnh, thều thào đáp: “Ừ, có điều… đau quá trời ơi, khụ khụ…”.
Mệnh Cách, ta XXX lão, cái lão Mệnh Cách XXX!!!
Đan Thành Lăng nheo mắt nhìn Hoành Văn, nói: “Ban nãy tại hạ hoàn toàn không pháy hiện ra các hạ lại gần, công phu quả thực hơn người”.
Nói thừa, hắn nhân lúc hỗn loạn để thi triển pháp thuật, hiện thân trong nháy mắt, một tên người phàm như ngươi có thể phát hiện ra mới là chuyện lạ.
Hoành Văn làm bộ tùy ý nói: “Các hạ quá khen”.
Đan Thành Lăng khẽ nở nụ cười, nói: “Phong thái của các hạ cũng khiến tại hạ khâm phục vô cùng, không biết danh húy[13] của các hạ là gì?”.
[13]: Thời cổ, danh húy dùng để chỉ tên của vua chúa, bậc trưởng bối hoặc những người được tôn kính. Gặp những người như thế, không những không thể gọi thẳng tên, đến lúc viết cũng không được sử dụng những từ này. Vì vậy, phải dùng đến những biện pháp như sửa chữ, sửa âm, hoặc lược bớt những nét viết của chữ, hiện tượng này được gọi là Kỵ húy hoặc kiêng húy.
©STE.NT
Hoành Văn liền nói: “Được Đan tướng quân hỏi đến, thật lấy làm vinh hạnh, tại hạ Triệu Hoành”.
Không ngờ Đan Thành Lăng cũng chắp tay nói: “Ngày hôm nay Đan Thành Lăng được Triệu công tử chỉ giáo, mong rằng sau này sẽ lại có dịp luận bàn cùng công tử”. Một tay của Hoành Văn còn đang chống sau lưng của bản tiên quân, hắn vẫn đứng yên tại chỗ, khẽ gật đầu.
Đan Thành Lăng lại nheo mắt nhìn Hoành Văn đầy thâm thúy, sau đó cùng Thiên Xu xoay người, Thiên Xu quay đầu nhìn lại, từ lúc bị thương đâm trúng tới giờ bản tiên quân chưa hề quan sát tới gương mặt y, giờ này trông thấy, sắc mặt y vẫn như xưa, không dễ đoán được điều gì, đôi mắt đen kịt nhìn ta, nói: “Xin lỗi”.
Ta cố lấy chút sức lực nói: “Không có gì, đáng đời ta thôi…”. Mà đúng là đáng đời ta thật.
Ánh mắt của Mộ Nhược Ngôn lóe lên một cái, sau đó quay mặt lại. Đan Thành Lăng cùng y nhảy lên bức tường vây, chìm mình vào bóng đêm.
Bản tiên quân ngồi phịch xuống đất, nghe thấy quanh người nhốn nháo ồn ào náo động, hẳn là cha già cùng hai vị huynh trưởng của Lý Tư Minh đã nghe thấy tin tức mà chui ra khỏi chăn, không biết có dẫn theo đại phu không nữa.
Hoành Văn nhỏ giọng nói: “Trước mắt ngươi cố gắng chịu đựng một chút nhé, đợi ta tránh ra một chỗ không người sẽ kéo ngươi ra”.
Bản tiên quân thở hổn hển, cười khổ nói: “Không được… kéo ra… bị thương ra thế này rồi… Ngươi mà kéo ta ra thì Lý Tư Minh… chết chắc… Ta phải ở bên trong mà chống đỡ”.
Hoành Văn lạnh giọng nói: “Đáng đời nhà ngươi”.
Hai ván, ba ván, nhàm chán vô vị.
Cái gọi là thú vui lúc đánh cờ, ấy chính là cùng với kẻ ngồi đối diện phân tài cao thấp, vì một hai quân cờ được mất, vì hai ba phần cục diện mà ngươi cướp ta tranh, ngươi vui ta giận, ngươi dương dương đắc ý ta cười lạnh âm trầm, lúc thì vò đầu bứt tóc, khi mồ hôi lạnh lã chã tuôn rơi, dùng dằng mãi cũng không hạ được quân cờ xuống, cũng chỉ vì cái thú vui ấy.
Thế nhưng lúc Mộ Nhược Ngôn chơi cờ, mặt mũi hoàn toàn vô cảm. Ngươi ăn của y một quân, y im lìm bất động; y ăn được của ngươi một quân, vẫn bất động im lìm. Thắng hay thua cũng vẫn cứ một bộ mặt đó, bản tiên quân hết sức bực mình.
Năm đó khi còn ở trên thiên đình, bản tiên quân cũng từng đấu với Thiên Xu Tinh quân vài ván, cũng có thấy y bộ dạng thế này đâu. Khi đồn y đến bước đường cùng, đầu mày của Thiên Xu sẽ hơi nhíu lại, thoáng chút trầm ngâm; lúc bản tiên quân sa lầy, y tuy rằng không mừng ra mặt, nhưng ánh mắt đuôi mày, cũng vương chút ý cười. Tuy không biểu hiện gì nhiều, nhưng dù sao cũng có giận có vui. So như vậy, Mộ Nhược Ngôn như khúc gỗ bây giờ lại có chút không giống Thiên Xu của năm xưa.
Ta vẫn còn nhớ rõ, trong một lần ngẫu nhiên gặp tại chỗ của Nam Cực Tiên Ông, bản tiên quân cùng với Thiên Xu chơi cờ, ván cờ đó ta đánh cực kì trắc trở, chốn chốn đều bị vây chặt, dùng cạn khả năng cũng không vãn hồi được cục diện, chỉ có thể âu sầu ném quân cờ xuống, thổn thức nhận thua. Thiên Xu lúc đó đang kẹp một quân cờ trắng giữa hai ngón tay, gõ nhẹ xuống bàn cờ, nghe ta nhận thua xong còn mỉm cười một cái. Y dùng những ngón tay thon dài nhặt quân cờ trên bàn lên, phân ra rồi để vào trong hũ. Thiên Xu bình thường rất lạnh lùng, nhưng nụ cười khi ấy lại không lạnh lẽo chút nào.
Ta đưa mắt nhìn trộm Mộ Nhược Ngôn, Thiên Xu chuyển thế một lần, vậy mà chút hơi ấm trên người cũng “chuyển” mất tiêu. Mộ Nhược Ngôn như cơn gió nhẹ ngày hôm nay vậy, tuy ôn hòa, lại thấm nhuần hơi lạnh.
Mộ Nhược Ngôn ngước đôi mắt trong suốt lên nhìn ta. Bản tiên quân đang ngẫm nghĩ đến xuất thần, bị y nhìn như thế liền có chút hoảng hốt, một lát sau mới đột nhiên bừng tỉnh, vội vàng cười ngượng ngập: “Ta cứ nghĩ đâu đâu ấy, quên cả hạ cờ”. Liền tiện tay đặt quân cờ trong tay xuống, Mộ Nhược Ngôn thấy thế, thần sắc rốt cuộc cũng thay đổi một chút, “Lý công tử cầm quân trắng, sao lại đánh quân đen?”.
Mặt ta hơi nóng, ban nãy mới ăn được của Mộ Nhược Ngôn mấy quân, nhặt cờ xong lại nhìn lén bộ mặt biểu cảm của y, bất giác để tâm trí lãng đãng tận đâu, vẫn cứ nắm lấy quân cờ đen ấy trong tay. Ban nãy nhất thời hồ đồ, đặt luôn nó xuống, ta nhặt quân cờ lên, càng ngập ngượng hơn, “Hồ đồ mất rồi, hồ đồ mất rồi”.
Chỉ nghe thấy từ xa, tiếng ai thong thả nói: “Không phải là hồ đồ, là ‘nhàn ngắm hoa đua nở, gió cũng khiến người say’”.
Bản tiên quân ho khan một tiếng, nhìn bóng áo xanh kia bước vào trong viện, nha hoàn nói: “Thiếu gia, Triệu tiên sinh tới rồi”.
Ta lầm bầm trong bụng: Nói thừa, Triệu tiên snh đã đứng ngay trước mặt rồi, thiếu gia ta còn có thể không biết hắn tới nữa ư? Triệu tiên sinh chắp tay với bản tiên quân, khách khí nói: “Tại hạ mạo muội tới thăm, lại đường đột xông vào trong viện, xin Tam công tử đừng trách”. Ta cũng chỉ đành chắp tay theo hắn, “Triệu tiên sinh khách khí quá rồi, hôm nay có thể được tiên sinh ghé chơi, cầu còn không được”.
Hôm nay Hoành Văn ghé qua, nhất định là vì không nén nổi tò mò mà chạy tới thăm Thiên Xu Tinh quân.
Bản tiên quân phất tay để cho người hầu lui cả xuống, quả nhiên Hoành Văn liền trưng ra đôi mắt chứa vài phần nghi hoặc nhìn Mộ Nhược Ngôn, Mộ Nhược Ngôn đứng dậy, ta lại ho khan một tiếng, “Nhược Ngôn, vị này là Triệu tiên sinh. Triệu tiên sinh, đây là…”.
Hoành Văn khiêm nhường chắp tay chào Thiên Xu: “Tại hạ Triệu Hoành, là mạc trọng trong vương phủ. Ban nãy tự ý xông vào, quấy rầy Ngôn công tử chơi cờ, mong Ngôn công tử đừng trách”. Đôi mắt của Hoành Văn thấp thoáng ý cười, chỉ đăm đăm nhìn Thiên Xu.
Mộ Nhược Ngôn chắp tay đáp lễ, nói: “Triệu công tử khách khí rồi, nếu công tử không chê, cứ gọi thẳng Nhược Ngôn là được, hai chữ công tử này tại hạ vạn lần không dám nhận”.
Hoành Văn nhìn Thiên Xu vốn không có ác ý gì, nhưng hiện giờ Thiên Xu đang trong hoàn cảnh thế này, thấy người ngoài chỉ càng khiến y khổ tâm hơn thôi. Lại có trận gió thổi qua, Mộ Nhược Ngôn khẽ ho mấy tiếng, hẳn là đã dùng hết khí lực mà kiềm cơn ho lại, mới miễn cưỡng cười với Hoành Văn, nói rằng: “Có chút thất lễ, khiến công tử chê cười rồi”.
Hoành Văn nói: “Tại hạ có chút việc tới tìm Tam công tử, không quấy rầy Ngôn công tử nghỉ ngơi nữa”. Hoành Văn nói xong liền âm thầm kéo ống tay áo của ta một cái, bản tiên quân liền theo hắn bước ra xa độ mười bước, thấp giọng hỏi: “Sao ngươi lại qua đây”.
Hoành Văn nhỏ giọng nói bên tai ta: “Nam Minh Đế quân tới rồi, đang ở tiền viện”.
Bản tiên quân sửng sốt, “Hả?”.
Hoành Văn nói: “Suỵt. Ngươi ra tiền viện đi, phải giả bộ không hay biết gì đấy. Khí sắc của Thiên Xu không tốt, ngươi để y về phòng nghỉ ngơi trước đã”.
Ta lập tức quay người lại, Mộ Nhược Ngôn đang ở bên bàn đá nhặt quân cờ. Ta nói: “Ngươi về phòng đọc sách, nghỉ ngơi chốc lát đi, để người hầu dọn được rồi”. Mộ Nhược Ngôn không phản ứng gì, bản tiên quân đành mặc y ở trong viện, sau đó cùng Hoành Văn vội vội vàng vàng chạy ra tiền viện.
Vừa đi ta vừa hỏi Hoành Văn: “Nam Minh Đế quân gan lớn thế sao, dám vác cái danh Nam Quận tướng quân, ngang nhiên vào Đông Quận Vương phủ?”.
Hoành Văn cười nói: “Đan tướng quân si tình lại có mưu có lược, sao lại làm chuyện ngu xuẩn thế được, ngươi ra xem là biết liền”.
Tình hình ở tiền viện khiến bản tiên quân vô cùng kinh hãi.
Hơn mười người mặc đoản y[1] đứng xếp thành hàng trên mảnh đất trống, tổng quản nội viện một tay để sau lưng, một tay vuốt chòm râu dê, đi đi lại lại trước mặt mấy người kia.
[1]: Đoản y: Y phục bó người, vạt trước hoặc vạt sau ngắn. Là y phục dành cho tầng lớp bình dân hoặc binh sĩ thời cổ.
Mười mấy kẻ này là gia đinh mới được tuyển chọn vào trong Đông Quận Vương phủ.
Trong số đó có một kẻ có vóc người cao lớn, khoác trên mình áo nát quần bươm, chân mang đôi giày có gai, chính là Nam Minh Đế quân Đan Thành Lăng.
Bản tiên quân từng tưởng tượng vô số tình huống Đan Thành Lăng lẻn vào Đông Quận Vương phủ, lão già Mệnh Cách nói với ta rằng hắn nửa đêm tới cướp Thiên Xu, ta liền chắc mẩm rằng hắn sẽ xuất hiện khi sắc trời đen kịt, gió nổi trăng mờ. Trèo tường, phá cửa, chui lỗ chó, thi triển kinh công bay lên nóc nhà, sau đó nhẹ nhàng hạ xuống… Nói chung mọi khả năng ta đều đã nghĩ qua, chỉ vạn lần không ngờ hắn lại xuất hiện giữa ban ngày ban mặt, bán mình vào Đông Quận Vương phủ làm gia đinh.
Ngọc Đế ơi là Ngọc Đế, Nam Minh Đế quân thật đúng là kẻ si tình.
Bản tiên quân thở dài.
Nam Minh Đế quân cứ thế mà bán thân vào Vương phủ, tổng quản của Đông Quận Vương phủ cũng cứ thế mà nhận hắn vào.
Thật không biết mắt của lão tổng quản mọc đằng nào nữa.
Bộ dạng của Đan Thành Lăng cũng không khác gì mấy so với khi là Nam Minh Đế quân. Thân cao hơn tám thước, dáng người hùng dũng oai vệ, đôi mày kiếm bay xéo hai mắt sáng quắc tựa diều hâu. Tuy rằng trên mặt lấm bẩn , đầu tóc rối bù , đứng giữa đám người này vẫn hệt như chú lợn lòi lạc bước giữa bầy heo nhà gầy rộc, vừa nhìn đã biết không phải kẻ tầm thường. Loại người như thế sao có thể bán mình làm gia đinh cơ chứ.
Chẳng lẽ do Mệnh Cách an bài?
Tổng quản lấy danh sách ra, bắt đầu ghi ghi chép chép. Bản tiên quân thong thả bước qua, tổng quản lập tức buông tay, khom người nói: “Thỉnh an Tam công tử”.
Ba chữ “Tam công tử” vừa ra khỏi miệng, hai đường nhìn sắc như dao của Đan Thành Lăng lập tức lao về phía bản tiên quân. Ta giả bộ như không nhìn thấy, gật đầu, sau đó nói: “Đều là gia đinh mới vào phủ sao?”
Tổng quản đáp “Đúng vậy”, bản tiên quân ung dung bước tới trước mặt đám đông, giả bộ như đang xem xét từng người một, bước tới bên canh Đan Thành Lăng thì chần chừ chốc lát, ngoài mặt chỉ quan sát, trong lòng lại suy nghĩ. Nam Minh rơi vào trong tay bản tiên quân, để không phụ công Ngọc Đế cậy nhờ, bản tiên quân phải để hắn đi làm việc gì đó thật thấp hèn, để hắn trông thấy được Thiên Xu nhưng không chạm vào, cả hai cùng chịu giày vò mới được.
Mấy vị trí như chẻ củi, đốt lò, canh cửa thông thường thì không có cơ hội bước được chân vào Hàm viện, Nam Minh lại quá uy mãnh, làm không nổi tiểu tư. Nghĩ trước nghĩ sau, chỉ có một công vệc có thể giúp hắn vào trong viện của ta, gặp được mặt tình nhân.
Ta cân nhắc xong xuôi, nói với tổng quản đứng bên cạnh: “Người này, tạm thời để hắn đi đổ dạ hương[2] của các viện đi”.
[2]: Dạ hương: Đổ phân
Buổi tối, bản tiên quân ôm lấy Thiên Xu mà nói, “Gần đây trời lạnh, ta cùng ngươi ngủ chung chăn nhé”.
Bình minh ngày hôm sau, rửa mặt xong xuôi, ta liền giả bộ ra hậu hoa viên hít thở khí trời buổi sớm, tránh tai mắt của mọi người, lẻn vào trong phòng Hoành Văn, thản nhiên bảo hắn lôi chân thân của bản tiên quân ra khỏi thể xác Lý Tư Minh. Hoành Văn rất vui vẻ làm, sau đó tiếp tục vui vẻ theo ta trở về Hàm viện, ẩn mình trên không trung xem trò vui.
Đan Thành Lăng khoác trên mình trang phục của gia đinh, đang đứng ở góc tường trong viện kiểm kê số bô, trong khoảnh khắc khi hắn đưa tay cầm cái bô lên, vô ý ngẩng đầu, đúng lúc trông thấy một bóng người đơn bạc yếu ớt đứng dưới mái hiên. Người kia như cảm thấy điều gì, cũng xoay người lại, vào giây phút khi bốn mắt chạm nhau, cả trời đất như ngưng kết lại.
Lương Sơn Bá và Chúc Anh Đài gặp gỡ tại ban công[3].
[3]: Nguyên văn là “hội tại lâu thai”. Lấy ý từ Lâu Thai Hội – một phân cảnh rất quan trọng trong câu chuyện Lương Sơn Bá – Chúc Anh Đài.
Bản tiên quân vẫn còn nhớ như in, năm xưa khi ta còn làm người phàm, có một gã thư sinh nghèo kiết hủ lậu, đi thi nhiều lần mà vẫn không đỗ đạt công danh đã nhờ người dâng mấy khúc thơ chua xót não nề cho ta xem, nhằm thể hiện tài hoa của hắn. Lúc đó ta vẫn còn chưa bị tổn thương tình cảm, đọc mấy bài thơ oán hận sầu thương đó cũng chỉ để vui vẻ nhất thời, xong cũng liền thôi. Chỉ nhớ có hai câu tả về đôi mắt của một người oán phụ trong khuê phòng như thế này: “Cận khán thu thủy viễn khán sơn, đường hoa dạ trọng lộ san san”. Ta đọc mà kinh hãi cả người, nhìn gần một chút thì giống nước, nhìn xa một chút lại tựa núi non, nửa đêm trông thì lại hao hao mấy đóa hải đường sương đang long tong nhỏ giọt, một đôi mắt như thế mà lại xuất hiện trên mặt người, vậy thì đáng sợ đến nhường nào.
Ta thành thật nói suy nghĩ của mình ra, người thay mặt dâng thơ không nói lời nào liền đi mất, còn đem nguyên văn lời của ta truyền đạt lại cho kẻ viết thơ nghe. Có người nói rằng gã nghèo kiết hủ lậu đó đã mở tập thơ ra, ngửa cổ điên dại cười ba tiếng, một ngụm máu tươi phun lên trên giấy, phất áo mà đi. Lại nghe đồn rằng hắn đã vào rừng sâu núi thẳm, hoặc tu đạo hoặc quy y cửa phật mất rồi.
Giờ nhớ lại, năm đó quả thật ta đã gây ra tội ác, bởi vì dốt nát bất tài, đã ép một văn nhân có tài phải vào chốn rừng sâu núi thẳm. Hai câu thơ ấy tả sâu sắc đến nhường nào, đặt nó vào trong tình này cảnh này, lại thích hợp biết bao nhiêu.
Đôi mắt của Thiên Xu như dòng nước mùa thu nhìn gần, hai mắt của Nam Minh lại tựa đồi trọc nhìn xa. Mái hiên bên này chất đầy những thống khổ bi ai, những nhớ nhung vui sướng nói hoài không hết, tình ý miên man dàn trải, chái nhà bên kia lại nặng trình trịch những thương với nhớ, trụi thùi lủi những ái với tình.
Ngóng, cũng chỉ ngóng một cái thế mà thôi. Đan Thành Lăng xách bô lên, mặt không đổi sắc, bước ra khỏi viện, Mộ Nhược Ngôn cố làm vẻ điềm tĩnh mà quay đầu lại, gương mặt lại không khỏi trắng thêm một chút, vừa bước chân đi thì thân thể cũng khẽ run.
Hoành Văn nói: “Đôi tiểu uyên ương bị gậy đánh này quả thực đáng thương”.
Ta nói: “Cái gậy to tướng đã đánh uyên ương cũng khiến người ta căm phẫn quá còn gì”.
Hoành Văn há miệng ngáp một cái, “Nam Minh Đế quân làm gì có tư cách trách ngươi, năm xưa hắn làm gậy đánh uyên ương, xuống tay nặng chẳng ai bì được”. Sau đó liếc xéo nhìn ta, “Ngươi vẫn còn ghi hận chuyện của Thanh Đồng và Chi Lan đúng không”.
Ta cười lạnh, “Ta làm sao quên nổi”.
Thanh Đồng là một tiểu đồng đưa tin dưới trướng Đông Hoa Đế quân. Giao tình giữa Đông Hoa Đế quân và Hoành Văn rất tốt, thường đưa kèm luôn thiệp mời cho ta, mời ta tới chơi vài ván cờ, uống vài chén trà những khi rảnh rỗi. Những lần ấy đều là do Thanh Đồng đưa tin, tới tới lui lui mãi cũng thành quen. Thanh Đồng vốn thông minh lanh lợi, vì đi truyền tin có thể đi lại khắp các ngóc ngách trên thiên đình, ai ngờ người này lại có tư tình với tiểu tiên nữ Chi Lan của điện Phi Hương, thường xuyên qua lại.
Hai người động phàm tình, làm một số chuyện mà ở trên thiên đình không ai nên phạm phải. Có một ngày lén lút gặp nhau, lại bị thiên binh làm nhiệm vụ hôm đó bắt ngay tại trận, giải thẳng tới Ngọc Đế. Vốn dĩ có Đông Hoa Đế quân, Hoành Văn cùng ta đứng ra nói giúp, xem ý tứ của Ngọc Đế, cũng chỉ định phạt qua loa một chút, biếm xuống trần gian là xong chuyện. Nhưng chẳng ngờ Nam Minh Đế quân lại gạt đám đông bước ra, nói thiên đình vốn có quy củ, không thể vì tình cảm mà nhân nhượng được, cần dựa theo đúng luật trời mà nghiêm trị.
Hắn đứng giữa điện Linh Tiêu, hiên ngang trần thuật. Ngọc Đế giao việc này cho Nam Minh xử trí. Nam Minh liền sai người áp giải Thanh Đồng và Chi Lan lên Tru Tiên Đài, chém đứt tiên căn, ném vào Súc Sinh đạo. Nếu Thanh Đồng là con thỏ ranh mãnh, thì Chi Lan nhất định sẽ là hổ dữ. Chi Lan là kiến hôi, thì Thanh Đồng sẽ là tê tê. Thanh Đồng là tôm là tép, vậy Chi Lan sẽ là con cá nuốt gọn tôm tép vào bụng. Cứ như thế, tàn sát hủy hoại nhau đến chín kiếp mới được làm người, nhưng vẫn sẽ là thù địch, số mệnh không có nhân duyên.
Khi đó Nam Minh Đế quân không dám đắc tội với Đông Hoa và Hoành Văn, liền gán cho ta một cái tội danh ngay trên Linh Tiêu bảo điện, gọi là tội mê hoặc tiếp tay. Nói rằng ta không có tu vi, gốc phàm chưa hết, ngấm ngầm ám chỉ với Ngọc Đế rằng bản tiên quân đã xúi giục Thanh Đồng đi chòng ghẹo Chi Lan.
Có ai ngờ được, một vị Nam Minh Đế quân như thế lại có tư tình với Thiên Xu Tinh quân. Hắn lưu lạc tới nông nỗi hôm nay, bản tiên quân không thể không nói với hắn một câu: Báo ứng tới rất nhanh.
Nam Minh ơi Nam Minh, ngươi cùng Thiên Xu đưa mắt ngóng trông nhau thực cảm động lòng người. Năm xưa khi ngươi hạ lệnh ném Thanh Đồng và Chi Lan vào Súc Sinh đạo, liệu từng nghĩ sẽ có ngày này?
Ta nói: “Nhớ tới Thanh Đồng và Chi Lan, liền cảm thấy Ngọc Đế phạt Nam Minh Đế quân như thế này cũng rất công bằng. Nhưng Thiên Xu chưa từng làm chuyện gì thất đức, vậy mà hằng ngày phải chịu dằn vặt hơn Nam Minh vô số, cũng quá bất công”.
Hoành Văn nói: “Ngươi nói những câu này lại không sợ Ngọc Đế nghe thấy được”.
Kẻ trước người sau bay về phòng Hoành Văn, bản tiên quân trở lại là Lý Tư Minh, Hoành Văn phải tới chỗ Đông Quận Vương trình diện một phen, bản tiên quân đương nhiên trở về Hàm viện. Mộ Nhược Ngôn ngồi ở trong phòng, tay nắm chặt một quyển sách, ánh mắt lại không đặt lên sách, chẳng biết đang ngóng về phương nào, người như đi vào cõi mộng.
Bản tiên quân bước lên phía trước, nói: “Nhược Ngôn vẻ mặt ngẩn ngơ, không biết là nhớ quê nhà, hay nhớ đến ai?”.
Trên mặt Mộ Nhược Ngôn viết là nhớ người, ngoài miệng lại nói: “Cả ngày ngồi rảnh rỗi,ngẫu nhiên nhớ lại chút chuyện xưa”.
Ta đứng đối diện với y,trầm giọng nói : “À, hẳn là chuyện xưa với cố nhân năm đó rồi”. Mộ Nhược Ngôn không nói lời nào, bản tiên quân đặt một bàn tay lên bờ vai gầy guộc của Mộ Nhược Ngôn, tay còn lại rút quyển sách trong tay y ra, không ngờ lại là tập thơ Cao Thường Thị[4] .
[4]: Tập thơ Cao Thường Thị do nhà thơ Cao Thích thời Đường biên soạn.
Phòng ngủ của Lý Tư Minh là một gian phòng kép được ngăn đôi bởi một tấm bình phong chạm rỗng làm từ gỗ đàn hương, bên trong đặt giường màn, gian ngoài có chút đồ cổ, bày án thư[5], có thể coi như thư phòng mà sử dụng. Sau khi bản tiên quân chuyển Mộ Nhược Ngôn vào nơi này rồi, liền cố ý đặt vài chồng sách lên bàn, không thơ khổ não thì cũng phú thê lương, tạo điều kiện cho y quằn quại vì tình.
[5]: Án thư: Bàn hẹp và dài kiểu cổ, thời xưa dùng để đọc sách và viết.
Ta vốn nghĩ rằng, mỗi ngày nhìn Thiên Xu giấu một quyển thơ trong tay áo, giữ lệ trên bờ mi mà nhìn mây trôi ngoài cửa sổ, nhất định sẽ là một khung cảnh khiến người ta thương tiếc không thôi. Nhưng y lại chẳng nhận cái tình ý này của ta, mấy ngày trước, không biết Thiên Xu mò được từ xó xỉnh nào một quyển Kinh Dịch, lăm lăm một cây bút lông sói nhỏ trên tay, vừa đọc lại vừa viết lời bình. Kinh Dịch thì có gì để bình với luận? Trên đường trên phố đầy sạp hàng của thầy bói nào chả bày một quyển. Ta cứ nhìn đám chữ tiểu triện[6] được phê chi chít trên trang sách kia là răng lại bắt đầu ê ẩm. Nhưng ta lại nghĩ, y thích đọc sách thì để y đọc đi, còn tốt hơn là treo cổ với nhảy hồ. Tối qua, đến tận lúc bản tiên quân ngồi xuống giường, Thiên Xu mới buông sách đi ngủ. Khó khăn lắm mới đổi sang đọc thơ, ai dè lại là Cao Thích.
[6]: Tiểu triện: Là Hán tự thống nhất dùng để viết sách. Ra đời sau khi Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung Hoa, tiểu triện lưu hành tới tận những năm cuối đời Tây Hán (khoảng năm thứ 8 trước Công Nguyên).
Ta nhíu chặt đầu mày săm soi bìa sách, đột nhiên tỉnh ngộ. Đúng rồi, người trong mộng của y – Đan Thành Lăng hiện giờ là Tướng quân, vì vậy mới đọc thơ chiến tranh trong Cao Thường Thị. Nhìn những chữ những câu ngập trong đao kiếm, gió lửa mù trời, tưởng tượng đến người giữa chiến trường ánh đao lửa khói. Ban nãy mới trông thấy cảnh Nam Minh xách bô trong sân, giờ mới cần phải đọc hai ba câu thơ để ôn lại một lần bộ dạng dũng mãnh thật sự của người trong mộng.
Chút tâm tư cỏn con ấy, ta liếc mắt đã nhìn thấu ngươi rồi. Bản tiên quân âm thầm cười một tiếng, sau đó trả lại sách cho y, “Ngươi đã là người của bản công tử, chuyện cũ người xưa phải quên cho bằng hết, từ nay về sau, chỉ được phép nhớ một người là bản công tử, cùng với những chuyện xảy ra giữa hai ta thôi”.
Thiên Xu nói: “Chuyện ấy khó mà làm được”.
Ta không ngờ được y lại dám phản đối, nói: “Cái gì?”.
Mộ Nhược Ngôn gấp quyển sách lại, ngẩng xéo đầu, đôi mắt trong trẻo lạnh lẽo liếc nhìn ta, nói: “Trái tim không theo ý bản thân, lại càng chẳng theo ý người ngoài, sao có thể nói không nhớ liền không nhớ. Nếu ta đồng ý, vậy không phải nói dối rồi sao?”.
Không ngờ đứng trước mặt ta mà Mộ Nhược Ngôn lại nói ra được những lời bén nhọn như thế. Cái thứ gọi là “tình” này cũng thật lợi hại, tình nhân tới rồi, người cũng thay đổi.
Ta cũng không cho đó là ngang ngược, cười một tiếng, thể hiện sự rông lượng của bản thân. Bản tiên quân kéo ghế ra, ngồi xuống trước bàn, rót một chén trà để uống, Mộ Nhược Ngôn đưa mắt liếc nhìn ống tay áo trái của ta một cái, sắc mặt thoáng chút hoài nghi. Lúc này ta mới nhớ ra cái món đồ chơi cưng cứng trong ống tay áo là thứ định mang tới cho Thiên Xu, bèn vội vàng lấy ra, dựng thẳng lên bàn.
Ống trúc cao nửa thước, vỏ ngoài xanh biếc, trong ngoài đều được đánh cho nhẵn bóng. Ta mỉm cười, hỏi Mộ Nhược Ngôn: “Có thích không?”.
Mộ Nhược Ngôn nhìn ngắm nó một lúc lâu, vẻ mặt có chút miễn cưỡng, nói: “Cái ống bút này quả thực rất giản dị, rất đáng yêu”.
Ta đẩy nó lại gần Mộ Nhược Ngôn một chút, “Không phải ống cắm bút đâu, ngươi nhìn kĩ một chút đi”.
Vẻ mặt Mộ Nhược Ngôn càng miễn cưỡng hơn, lại tỉ mỉ ngắm nghía một hồi, trầm ngâm không đáp. Ta dịu dàng cười, nói: “Mấy ngày nay thấy ngươi đọc Kinh Dịch chán rồi thì có thể bói một quẻ, ngươi có thích cái ống gieo quẻ này không?”.
Mộ Nhược Ngôn cứng cả người, nhìn ống trúc trên bàn. Bản tiên quân rất đắc ý, từ xưa đến nay đã tặng đồ là luôn theo tôn chỉ: Đánh rắn phải dập đầu. Nhìn bộ dạng Thiên Xu, nhất định đang cảm động rồi.
Ta lại dịu giọng nói: “Nếu ngươi còn muốn phê bát tự[7] cho người khác, từ trên xuống dưới vương phủ này, ngươi muốn phê cho kẻ nào ta sẽ lôi kẻ ấy về cho ngươi”. Mộ Nhược Ngôn há miệng định nói cái gì đó, rồi lại vén ống tay áo che miệng, bắt đầu ho khù khụ, ho được vài tiếng rồi mới đứt quãng nói: “Đa, đa tạ công tử đã hao tâm… ta chỉ thỉnh thoảng đọc chơi thôi, chứ không…”.
[7]: Bát tự: Tám chữ gồm giờ ngày tháng năm sinh viết theo Thiên Can và Địa chỉ, là một cách xem số mệnh của Trung Quốc.
Bản tiên quân đứng dậy, vuốt lưng cho y, bưng chén trà tới, cho y uống vài hớp, “Ta cũng chỉ tiện tay làm thôi, cũng không có tình có ý gì bắt ngươi phải gánh đâu. Ngươi thích nó thì cứ nhận lấy, dùng giải sầu là được rồi”.
Y uống vài ngụm nước trà, cơn ho cũng dừng lại. Ta đặt chén trà xuống bàn, Mộ Nhược Ngôn nhìn chén trà đó, khổ sở nở một nụ cười.
Ta nhặt quyển sách thơ rơi trên nền đất lên, đặt xuống bàn, trong bụng rỗng tuếch đấy, nhưng vẫn phải cố kiếm thứ gì mà nói: “Không ngờ ngươi lại đọc cái này. Ta vẫn cứ nghĩ ngươi thích đọc văn thơ của Vương Ma Cật[8] với Mạnh Tương Dương[9]”.
[8]: Vương Duy (701-761), tự là Ma Cật, là người huyện Kỳ, Thái Nguyên, là đại biểu cho những thi nhân thời Thịnh Đường người công nhận là tổ sư văn học của thời kì Khai Nguyên, Thiên Bảo.
[9]: Mạnh Hạo Nhiên (689-740), là nhà thơ thời Đường, là người Tương Dương , thế nhân gọi ông là Mạnh Tương Dương.
Tuy rằng lúc ở trên thiên đình, mỗi lần có chuyện gì cần động chạm đến văn chương giấy mực, ví như hành lệnh[10], liên cú[11], hiến thơ các loại, đều phải nhờ vào Hoành văn mới qua được ải, nhưng thật ra lúc làm người phàm ta cũng đã từng đọc thơ ca, cũng có thể cùng người khác đàm đạo dăm ba câu.
[10]: Hành lệnh: Còn gọi là chơi tửu lệnh, là một trò chơi góp vui trong tiệc rượu, tương truyền xuất hiện lần đầu tiên vào thời Tây Chu, chính thức trở nên phổ biến vào đời Tùy Đường. Hoạt động này rất phổ biến trong tầng lớp sĩ phu.
[11]: Liên cú: Một trong những hình thức làm thơ thời xưa, gồm hai hay nhiều người, mỗi người làm một câu rồi ghép thành bài thơ.
Mộ Nhược Ngôn nói: “Thơ Vương và Thơ Mạnh tuy rằng cao xa thanh bạch, nhưng thật ra một vị là phú quý sinh nhàn, còn một vị là nhàn mong phú quý. Chẳng bằng Cao Thích, trong lòng mưu cầu danh lợi, ngang nhiên thẳng thắn toan tính, lại thoải mái vô cùng”.
Ta nói: “Cũng đúng, có điều người này tuy miệng thì nói rất hay, nhưng làm thì chẳng được bao nhiêu, thơ viết thì âm vang đấy, trên chiến trường lại không làm nên trò trống gì. Trên đời này, kẻ nói được làm được có mấy người? Phần lớn đều như Cao công mà thôi”. Sau đó ta vui vẻ quan sát đôi mắt của Mộ Nhược Ngôn, đợi y bàn luận sâu hơn, nhưng đối phương lại tránh ánh mắt của ta, không nói gì thêm nữa, cầm quyển sách trên bàn lên, đặt về lại án thư.
Ta có phần chán nản, gượng gạo nói thêm vài câu khác, sau đó bèn lê bước ra khỏi phòng.
Đông Quận Vương phủ mấy ngày gần đây đang do dự giữa vùng lên tự lập hay án binh bất động chờ thời, các cuộc nghị sự kéo dài liên miên không dứt. Hoành Văn bị trói chân cả ngày trời, không có được tí thời gian rảnh rỗi nào. Lúc ta đang luẩn quẩn trong viện, gặp phải Đan Thành Lăng tới bảy tám lần, hắn khi thì đang quét sân, khi thì trừ cỏ dại. Tâm tư của hắn cũng thật thâm trầm, hễ thấy bản tiên quân liền thỉnh an cực kì cung kính, ánh mắt chẳng để lộ nửa phần khác lạ. Hại ta cả ngày trời đều phải vùi đầu suy nghĩ, buổi tối nên lấy đao đâm vào chỗ nào của hắn thì thích hợp.
Đến khi trời đã về chiều, ta rốt cuộc cũng đã trông thấy Hoành Văn, vẻ mặt hắn cực kì uể oải, thấp giọng nói: “Cái ông cha quận vương đó của ngươi quả là lằng nhằng có hạng, ngươi còn phải ở lại chỗ này thêm mấy ngày nữa. Ta chỉ sợ mình cứ hầu hắn dài dòng như thế, sớm muộn gì cũng có ngày không chịu nổi, dùng thiên lôi bổ cho hắn chết tươi”.
Ta cười làm lành, nói: “Ngươi đừng nóng, ân tình ta nợ ngươi chờ về thiên đình sẽ từ từ trả, buổi tối hôm nay ta đâm Nam Minh cho ngươi xem giải sầu, được không?”.
Hoành Văn nói: “Cả ngày hôm nay ngươi lại suy nghĩ xem nên đâm vào chỗ nào trên người Nam Minh chứ gì?”. Sau đó hắn dán sát lại bên tai bản tiên quân mà nói: “Vậy hôm nay ta sẽ tới phòng ngủ của ngươi chờ sẵn”.
Nghe hắn nói xong bản tiên quân liền thấy ngứa ngáy cả người, cũng thấp giọng đáp: “Ngươi nói xem, ta đâm Nam Minh chỗ nào thì tốt”.
Hoành Văn nói: “Tùy ngươi, thích đâm đâu thì đâm, đâm vào tim cũng được, dù sao hắn cũng không chết nổi, còn Mệnh Cách cơ mà. Lão không xử được thì còn Ngọc Đế, ngươi chỉ cần lo hạ đao là được”. Bản tiên quân nghe câu đó xong lại càng nóng ruột hơn, lao về Hàm viện như bay, chân không chạm đất.
Đêm đến, ta ngồi bên mép giường, liếc mắt nhìn Hoành Văn đang khoan thai thong thả bên giường, nuốt ực một ngụm nước miếng, sau đó kiên trì vượt khó, nói với con người đang đọc sách dưới ánh đèn rằng: “Nhược Ngôn, cũng không còn sớm, tới đây ngủ cùng ta đi”.
Lão già Mệnh Cách đã dặn đi dặn lại rằng, mỗi đêm trước khi đi ngủ, ta nhất định phải nói câu này với Thiên Xu, ta đây cũng là bị người khác ép bức thôi, có đúng không nào? Thế nên Hoành Văn à, ngươi có thể đừng trưng cái bộ mặt rất… không hiền hậu đó ra được không?
Mộ Nhược Ngôn nghe câu nói đó cũng đã thành quen, thổi tắt nến ở gian ngoài, sau đó đứng đờ đẫn bên giường, cởi bỏ áo ngoài, tháo phát quan ra. Thân thể chỉ khoác một lớp áo trong màu trắng thuần, dưới ánh nến trông lại gầy mỏng manh đến lạ. Y đưa mắt nhìn giường, thân thể hơi cứng, nhưng chậm rãi lật chăn ra, nằm xuống.
Trên giường chỉ độc một tấm chăn mỏng, bắt đầu từ buổi tối ngày hôm qua, bản tiên quân phải cùng Thiên Xu chung chăn mà ngủ.
Hoành Văn dựa người vào trụ giường nói: “Ngươi không ngủ à?”.
Toàn thân ta như đang bị cả đám như kim mảnh như lông bò đâm chi chít, không thể nào đứng trước mặt Thiên Xu lại quay ra nói chuyện với không khí được. Thưa thì không ổn, cười cũng chẳng xong, ta đành vác cái mặt mo mà cởi áo ngoài, xốc chăn lên, nhoài người thổi tắt cây nến trước giường, sau đó duổi thẳng người ra ngủ.
Hoàn thành được cái quá trình này thật gian nan.
Mộ Nhược Ngôn nhớ nhung tới Đan Thành Lăng, nghe tiếng thở cũng biết y đang trằn trọc, thao thức không yên. Hoành Văn lôi ta ra khỏi xác Lý Tư Minh, cười khẽ, nói rằng: “Đêm đêm cùng Thiên Xu chung gối cùng giường, có nảy sinh tình ý gì không đó”.
Ta gượng cười: “Không phải vì Nam Minh đã tới, ta phải diễn cho tròn vở kịch này sao? Hôm qua mới bắt đầu ngủ chung thôi mà, chắc qua đêm nay không cần nữa”.
Hoành Văn nói: “Cái câu nói trước khi ngủ ấy, nghe thân thiết nhỉ”.
Da mặt ta run bần bật, đáp: “Mệnh Cách dạy ta đấy, không nói không được”.
Phỏng chừng Hoành Văn cảm thấy chế nhạo ta thế là đủ rồi, liền không nói thêm gì nữa. Cùng ngồi trong phòng, Hoành Văn ngáp một cái, ta nói: “Cả ngày hôm nay ngươi đã vất vả rồi, cũng nên đi nghỉ sớm,hay ta cho ngươi mượn xác Lý Tư Minh, ngươi lên giường nằm chút đi”.
Hoành Văn biếng nhác đáp lại: “Thôi thôi, cái giường đó ngươi đi mà nằm cùng Thiên Xu ấy, đừng để xảy ra thêm chuyện gì rắc rối. Ta cũng sợ nhập vào thì dễ, xuất ra lại khó”.
Hai ta gà gật trước bàn, nghỉ ngơi trong chốc lát, lúc sắp canh ba, tiếng gió thổi vi vu, có một bóng đen quét qua song cửa sổ. Một lưỡi dao mỏng len qua khe cửa, đẩy then cài ra, hai cánh cửa im lặng tách ra một khe nhỏ, một luồn gió đêm thổi qua đó, bản tiên quân cùng Hoành Văn tức khắc tỉnh cả người. Nhìn bóng đen kia khẽ khàng lẻn vào phòng. Đan tướng quân, rốt cuộc ngươi cũng chịu ra tay rồi!!!
Bóng đen khom chân mà đi, lần theo ánh trăng mò vào trong phòng , tiếp cận giường ngủ. Trong bóng đêm, binh khí trong tay hắn lấp lóe thứ ánh sáng lạnh người, ta và Hoành Văn đứng bên vách ngăn, bản tiên quân không nhịn được mới nói: “Một cái giường có hai người ngủ , trời thì tối như hũ nút thế này, làm sao hắn phân biệt được ai là Thiên Xu ai là ta? Lăm lăm vũ khí như thế mà không sợ đâm nhầm người sao”.
Lời còn đang ra khỏi miệng Nam Minh đã đứng trước giường, trong tay đột nhiên sang rực, thì ra là môt viên dạ minh châu to cỡ quả trứng chim bồ câu. Tay còn lại dùng mũi đao vạch màn giường ra, Thiên Xu đang ngủ ở phía giường mà hắn đứng, Nam Minh cầm dạ minh châu soi một cái, liền trông thấy Mộ Nhược Ngôn.
Ta cùng Hoành Văn phiêu đãng tới đầu giường thò cổ ra nìn, Mộ Nhược Ngôn nằm ở trong màn cứ như có cảm ứng, đột nhiên ngồi bật dậy, trong ánh sáng của dạ minh châu, đôi uyên ương bốn mắt nhìn nhau, nhất thời mải miết đến ngây người. Hai người này đúng là chẳng sợ bản tiên quân, tức Lý tam công tử đang ngủ ngay bên cạnh đột nhiên tỉnh giấc.
Hoành Văn nói: “Cũng đến phiên ngươi rồi, còn không về mà bò dậy đi?”.
Ta nói: “Không vội không vội”.
Một tay Đan Thành Lăng nắm chặt lấy cổ tay Mộ Nhược Ngôn, kéo y xuống giường, tay còn lại giơ cao đoản đao sắc nhọn, nhắm về phía trong giường, đâm thẳng xuống, nhưng lại bị Mộ Nhược Ngôn giơ tay cản lại: “Đừng làm tổn hại đến tính mạng của hắn”.
Đan Thành Lăng nói: “Vì sao?”. Hai chữ rét lạnh như nghìn vạn mũi đao băng.
Sao mà dài dòng thế!!! Hai vị, chạy trốn quan trọng hơn.
Nhưng mà hai vị này lại không muốn chạy, cứ thích dông dài. Mộ Nhược Ngôn nói: “Hắn chưa làm gì ta cả, cũng không phải là người xấu”. giọng điệu nhẹ như không, cứ như đang nói về một cây cải trắng.
Hoành Văn nói: “Thiên Xu đối với ngươi thật là… rất có tình nha”.
Đan Thành Lăng lạnh lùng nói: “Ngươi không muốn ta động thủ, là vì lo lắng cho cái mạng của hắn, hay là vì sợ làm bẩn đao của ta?”.
Thiên Xu lặng yên, không nói một lời.
Đan Thành Lăng cười lạnh một tiếng, sau đó đột nhiên cao giọng nói: “Trước giường ồn ào cả buổi như thế, các hạ tuy rằng giấu đi hơi thở, kì thực đã sớm tỉnh rồi. Sao lại không ngồi dậy mà nói mấy câu?”.
Đến lúc bản tiên quân lên sân khấu rồi đây. Ta nhập vào xác Lý Tư Minh, điều hòa hơi thở.
Cao nhân đối đầu, khí thế phải đầy đủ, vững vàng. Cho nên ta thong thả mở hai mắt ra, chậm rãi ngồi dậy, từ từ mò đá lửa, đốt nến lên, lại ung dung bước vòng ra từ bên kia của cái giường.
Thong thả ngẫm nghĩ xem, ban nãy ta giấu cây đao thép ở chỗ nào.
Dạ minh châu đã bị Đan Thành Lăng nhét vào trong ngực, bàn tay trải nắm chặt lấy cổ tay Mộ Nhược Ngôn, bản tiên quân cùng hai người đối diện đưa mắt nhìn nhau, có vui, có buồn, cũng có ưu tư.
Ta đối xử với Thiên Xu như thế, y lại thay hắn chặn một đao lấy mạng của ta, đây là vui.
Ta đối xử với Thiên Xu như thế, y lại nói bản tiên quân không phải người xấu, nếu không phải trình độ diễn kịch của ta chưa đủ điêu luyện, thì là đầu óc của y có vấn đê, đây là buồn.
Còn về cái sự ưu tư…
Hoành Văn đứng sau lưng ta, nói: “Đao của ngươi đang dựng đứng trong cái bình hoa lớn chỗ góc tường ấy”.
Bản tiên quân lập tức nói: “Các hạ vào phòng lúc nửa đêm, ta lại không kịp thời nghênh đón, thật thất lễ. Ban ngày, công việc của gia đinh vừa nặng vừa dơ bẩn lại tạp nham, quả thật đã khiến Đan tướng quân chịu ấm ức, trong lòng ta vô cùng xấu hổ. Nhưng không biết Đan tướng quân nửa đêm nửa hôm, đem người của ta kéo xuống khỏi giường, là định làm gì?”.
Ta cười mỉn, chắp tay, thong thả lại gần cái bình hoa, lôi cây trường đao không vỏ ra.
Đan Thành Lăng nói: “Vốn ta cũng không định xuống tay, dùng lưỡi đao này lấy tính mệnh của ngươi chỉ tổ làm bẩn nó. Thôi được, coi như cho tên súc sinh nhà ngươi cơ hội giãy giụa trước khi chết”. Hắn quét mắt nhìn ta, vô cùng khinh miệt, “Hơn mười tên hộ vệ bên ngoài cửa đều ngã hết rồi, có vẻ không trông cậy được gì nữa đâu”.
Ta nói: “À”.
Không trông cậy được gì? Có Hoành Văn ở đây, dù bị Hắc Bạch Vô Thường tóm cổ ta cũng dư sức đòi về được, huống gì chỉ là bị đánh cho ngất xỉu. Ta nói: “Chúng ta ra vườn đọ sức chứ?”.
Đan Tướng Quân sải bước như bay, vui vẻ rời phòng, bản tiên quân thừa dịp liếc Mộ Nhược Ngôn một cái, sắc mặt y trắng bệch, xoay người, cũng bước ra vườn, không nhìn ta lấy một lần.
Dưới vầng trăng sáng vằng vặc, bản tiên quân đứng trong sân nói một câu “Đắc tội”, sau đó quát ầm lên: “NGƯỜI ĐÂU!!!”. Hơn mười gã hộ vệ lao ra khỏi bóng đêm, bao vây Thiên Xu và Nam Minh. Binh khí chạm nhau, “keng” một tiếng, ánh kim loại loang loáng giao nhau.
Ta đứng ở ngoài vòng chiến, giương mắt coi náo nhiệt, chỉ cần đợi lúc Nam Minh run tay, lao ra cho hắn một đao là êm chuyện.
Hoành Văn vừa mới ra khỏi phòng,sau khi cứu tỉnh hộ vệ, liền đứng ở trong sân, từ xa quan sát cuộc chiến, nói rằng: “Chiêu này của ngươi thật là thất đức”.
Ta cũng chỉ bất đắc dĩ thôi mà. Bản tiên quân lúc này đang nhập xác người phàm, làm sao mà địch nổi mãnh tướng oai phong hùng dũng như Đan Thành Lăng, chỉ có cách dùng hộ vệ kéo ngã hắn, sau đó dùng dao đâm hắn mới đảm bảo được.
Bản tiên quân vốn đã dặn dò các hộ vệ không được làm Mộ Nhược Ngôn bị thương, đao kiếm chỉ có thể nhào vào “thăm hỏi” thân thể Đan Thành Lăng, rất là gò bó. Đan Thành Lăng một mình đọ với mấy mình, ấy thế mà vẫn nhanh nhẹn còn thừa. Vừa chống đỡ vừa lùi lại, hắn đã sớm thăm dò cẩn thận đường rút, ra khỏi Hàm viện, cùng Mộ Nhược Ngôn lách qua cánh cửa nguyệt[12] của hậu hoa viên, sau hòn non bộ có một bức tường, mặt ngoài là một con hẻm không người. Hộ vệ đang đi tuần tra trong chính viện nghe thấy tiếng động liền vội vàng chạy tới, người càng lúc càng nhiều. Đan Thành Lăng giật lùi liên tục, hết đánh bên trái lại chặn bên phải, dần dần lâm vào cảnh lực bất tòng tâm. Lúc hắn lùi đến bức tường kia, trên người đã có bốn năm vết thương nhẹ.
[12]: Cửa nguyệt: Là một loại cửa có lối đi hình tròn (trông giống hình trăng tròn) ở giữa, phía trên có lợp ngói. Cửa nguyệt không có tác dụng đóng mở mà giữ vai trò là một vật bài trí, điểm tô cho kiến trúc.
Bản tiên quân nhắm chuẩn một khắc khi Đan Thành Lăng sơ sẩy, nắm chặt lấy trường đao, lách người vào đám đông.
Đan Thành Lăng tay phải vung đao cản vài mũi trường thương, tay trái vung chưởng đánh lùi đợt tấn công lao tới từ bên kia. Phía trước ngực mở cửa đón chào mũi đao của bản tiên quân nhắm thẳng, rất nhân đạo mà lao về phía ngực phải của hắn, năm tấc… bốn tấc… ba tấc. Đến khi chỉ còn hai tấc nữa thì có một bóng người chợt lóe lên trước mắt, phần ngực bản tiên quân sao đột nhiên lạnh toát.
Ta kinh ngạc cúi đầu, là một cây trường thương, mũi thương đâm vào ngực trái của ta, đầu kia của cán thương là một đôi tay, gầy gò, dài mảnh, dường như chẳng có chút sức lực gì đáng kể, ta đã từng nắm qua rồi, cảm giác xương xương.
Cũng trong khoảnh khắc thảng thốt ấy, một luồng gió mạnh vù vù lao tới, ánh bạc lóe lên, hình như là lưỡi đao mỏng của Nam Minh.
Cảm giác lạnh lẽo giờ đã “trèo” lên cổ.
Mệnh cách lại viết tắt trong sổ thiên mệnh rồi…
Keng một tiếng, cảm giác mát lạnh kia lại biến mất. Đao mỏng của Đường Thành Lăng kề ngang cổ ta, bất động, bởi vì một thanh trường kiếm phủ ngập ánh xanh đang gác trên cổ Mộ Nhược Ngôn, trường sam màu lam nhạt hơi lay động trong gió, “Ngươi thả hắn ra, ta sẽ để ngươi và Mộ Nhược Ngôn bình an vô sự ra khỏi vương phủ”. Hoành Văn à, làm người thì không nên huênh hoang khoác lác quá, ngươi hiện thân cũng không sao, nhưng cái thanh kiếm ấy có vẻ sáng hơi quá rồi đấy.
Đám hộ vệ nắm binh khí trong tay, không dám làm bừa, Đan Thành Lăng nhướng mày nhìn Hoành Văn, “Các hạ có thể làm chủ chuyện này được sao?”.
Hoành Văn nói: “Đương nhiên có thể”. Sau đó quay đầu, nói với đám hộ vệ: “Bỏ binh phí ngay tại chỗ, sau đó lùi ra bên ngoài hoa viên”.
Triệu tiên sinh đang là tâm phúc của Đông Quận Vương, đám hộ vệ cũng coi như nhanh trí, buông binh khí xuống, lùi về phía cửa nguyệt.
Lưỡi đao rời khỏi cổ của bản tiên quân, Hoành Văn thu tay, cũng rút kiếm khỏi cổ Mộ Nhược Ngôn, mềm giọng nói: “Ngôn công tử, mũi thương cũng đã đâm vào rồi, cũng nên buông tay ra rồi nhỉ?”.
Hai tay nắm cán thương buông lỏng, Hoành Văn dùng một tay đỡ lấy lưng ta, thấp giọng nói: “Còn gượng được đúng không?”. Trong khoảnh khắc đó, vẻ mặt hắn rất chi là đồng cảm.
Ta hít một hơi lạnh, thều thào đáp: “Ừ, có điều… đau quá trời ơi, khụ khụ…”.
Mệnh Cách, ta XXX lão, cái lão Mệnh Cách XXX!!!
Đan Thành Lăng nheo mắt nhìn Hoành Văn, nói: “Ban nãy tại hạ hoàn toàn không pháy hiện ra các hạ lại gần, công phu quả thực hơn người”.
Nói thừa, hắn nhân lúc hỗn loạn để thi triển pháp thuật, hiện thân trong nháy mắt, một tên người phàm như ngươi có thể phát hiện ra mới là chuyện lạ.
Hoành Văn làm bộ tùy ý nói: “Các hạ quá khen”.
Đan Thành Lăng khẽ nở nụ cười, nói: “Phong thái của các hạ cũng khiến tại hạ khâm phục vô cùng, không biết danh húy[13] của các hạ là gì?”.
[13]: Thời cổ, danh húy dùng để chỉ tên của vua chúa, bậc trưởng bối hoặc những người được tôn kính. Gặp những người như thế, không những không thể gọi thẳng tên, đến lúc viết cũng không được sử dụng những từ này. Vì vậy, phải dùng đến những biện pháp như sửa chữ, sửa âm, hoặc lược bớt những nét viết của chữ, hiện tượng này được gọi là Kỵ húy hoặc kiêng húy.
©STE.NT
Hoành Văn liền nói: “Được Đan tướng quân hỏi đến, thật lấy làm vinh hạnh, tại hạ Triệu Hoành”.
Không ngờ Đan Thành Lăng cũng chắp tay nói: “Ngày hôm nay Đan Thành Lăng được Triệu công tử chỉ giáo, mong rằng sau này sẽ lại có dịp luận bàn cùng công tử”. Một tay của Hoành Văn còn đang chống sau lưng của bản tiên quân, hắn vẫn đứng yên tại chỗ, khẽ gật đầu.
Đan Thành Lăng lại nheo mắt nhìn Hoành Văn đầy thâm thúy, sau đó cùng Thiên Xu xoay người, Thiên Xu quay đầu nhìn lại, từ lúc bị thương đâm trúng tới giờ bản tiên quân chưa hề quan sát tới gương mặt y, giờ này trông thấy, sắc mặt y vẫn như xưa, không dễ đoán được điều gì, đôi mắt đen kịt nhìn ta, nói: “Xin lỗi”.
Ta cố lấy chút sức lực nói: “Không có gì, đáng đời ta thôi…”. Mà đúng là đáng đời ta thật.
Ánh mắt của Mộ Nhược Ngôn lóe lên một cái, sau đó quay mặt lại. Đan Thành Lăng cùng y nhảy lên bức tường vây, chìm mình vào bóng đêm.
Bản tiên quân ngồi phịch xuống đất, nghe thấy quanh người nhốn nháo ồn ào náo động, hẳn là cha già cùng hai vị huynh trưởng của Lý Tư Minh đã nghe thấy tin tức mà chui ra khỏi chăn, không biết có dẫn theo đại phu không nữa.
Hoành Văn nhỏ giọng nói: “Trước mắt ngươi cố gắng chịu đựng một chút nhé, đợi ta tránh ra một chỗ không người sẽ kéo ngươi ra”.
Bản tiên quân thở hổn hển, cười khổ nói: “Không được… kéo ra… bị thương ra thế này rồi… Ngươi mà kéo ta ra thì Lý Tư Minh… chết chắc… Ta phải ở bên trong mà chống đỡ”.
Hoành Văn lạnh giọng nói: “Đáng đời nhà ngươi”.
Danh sách chương