Warrington và Bob bắt đầu lo lắng thật sự. Họ đã chờ đợi hơn 1 tiếng trong chiếc Rolls-Roycẹ Hannibal và Peter vẫn chưa quay về. Cứ 5 phút, Bob ra khỏi xe và chăm chú nhìn vực hẻm. Cứ 10 phút, Warrington cũng xuống xe. Vực hẻm trái dài, đen tối và ngoằn ngèo, y như con rắn!
- Cậu Bob ơi - cuối cùng Warrington nói, có lẽ chúng ta phải đi tìm 2 cậu kia thôi.
- Nhưng, chú Warrington ơi, chú không được phép bỏ xe.
- Cậu Hannibal và cậu Peter quan trong hơn bất kỳ chiếc xe nào. Tôi sẽ đi tìm 2 cậu.
Tài xế lại ra khỏi xe 1 lần nữa và mở cốp sau, lấy cái đèn pin lớn ra.
- Cháu đi cùng chú, chú Warrington ạ - Bob tuyên bố. Đó là bạn của cháu mà.
- Tốt ta sẽ cùng đi.
Warrington còn cẩn thận mang theo cái búa lớn, phòng trường hợp sẽ cần vũ khí. Rồi 2 chú cháu lên đường. Máy chỉnh hình đeo ở chân hơi vướng Bob khi bước, nhấtlà khi muốn bước nhanh bằng Warrington, chân chú ấy rất dài, nhưng chú tài giúp Bob trèo qua những khối đá sụt lở, chẳng bao lâu 2 chú cháu đến cửa vào Lâu đài kinh hoàng.
Hai chú cháu nhận thấy ngay rằng cửa chính không có tay cầm và do đó không thể mở rả? từ bên ngoài được. Warrington nhìn thấy tay cầm bỏ rơi dưới nền đất lót đan.
- Vậy là 2 cậu không vào ngã này - Warrington nói. Ta hãy tìm chỗ khác.
Hai chú cháu đi dọc theo mặt trước của lâu đài, dùng đèn pin quét lên những cửa sổ lớn. Chính Bob tìm ra dấu chấm hỏi lớn gần cửa sổ? lớn? hé mở.
- Hai bạn vào ngả này!- Bob la lên.
Rồi Bob giải thích cho Warrington về hệ thống dấu vết của 3 cậu thám tử trẻ.
Chú tài đẩy cửa và bước vào, Bob theo cùng. Đèn pin mạnh của Warrington chiếu sáng l phòng ăn rộng lớn.
- Nhiều cửa quá. Không có cửa nào đánh dấu cả. Hai cậu đi ngả nào nhỉ? - Warrington? hỏi.
Bob chỉ vào dấu chấm hỏi vẽ trên tấm gương.
- Chẳng lẽ 2 cậu đi xuyên qua gương, Warrington thắc mắc nói. Xem nào...
Chú nắm lấy khung gương và ngạc nhiên thấy nó xoay? như một cánh cửa.? Phía sau là 1 hành lang hẹp kéo dài ra.
- Cánh cửa bí? mật! Chắc là 2 cậu đi ngả này. Chúng ta hãy làm theo.
Bob không tin chắc là mình sẽ có đủ can đảm 1 mình chui vào hành lang tối như hũ nút??? này, nhưng Warrington không do dự 1 giây và Bob đành phải đi theo.
Cuối hành lang có 1 cánh cửa và trên cánh cửa là dấu chấm hỏi màu trắng của thám tử trưởng. Hai chú cháu bước vào và rơi vào phòng chiếu. Warrington chiếu sáng lên những tấm rèm nhung, những cái ghế nhung lông, cây đàn orgue đầy bụi bậm, tất cả trong tình trạng rất suy tàn. Nhung không thấy dấu vết Hannibal và Peter.
Bỗng nhiên Bob nhìn thấy ánh sáng dưới 1 cái ghế. Cậu cúi xuống và lượm 1 cái đèn pin lên.
Chú Warrington? ơi! Đèn của Peter, Đèn mới!
- Chắc chắn cậu Peter không quên nó ở đây đâu - chú tài la lên. Ở đây chắc là có chuyện gì xảy ra. Ta hãy tìm kiếm cẩn thận.
Hai chú cháu bò xuống trong lối đi chính giữa hàng ghế; Warrington chiếu sáng sát gần thảm.
- Cậu xem này, chú nói. Bụi được quét trên 1 diện tích lớn.
Warrington nói đúng. Ngay chính giữa diện tích được quét sạch như thế, có 1 dấu chấm hỏi gần như không nhận ra được... Warrington có vẻ lo lắng nhưng chú không nói ra những gì chú e sợ. Chú đứng dậy và tiếp tục tìm kiếm. Cuối cùng chú tìm thấy trong lớp bụi những dấu chân đi vòng qua ghế, đi qua phía sau màn ảnh? mục nát và dẫn đến 1 cánh cửa. Phía sau cánh cửa có 1 tiền sảnh. Một cầu thang đi xuống đâm sâu vào bóng tối. Phải leo lên thang lầu hay bước vào độ sâu của tiền sảnh? Chú tài còn đang phân vân, thì chù nhìn thấy 1 dấu chấm hỏi vẽ yếu ớt trên bậc thềm trên cầu thang.
- Cậu Hannibal rất tài tình. Cậu đã cung cấp cho chúng ta tất cả mọi chỉ dẫn cần thiết? để tìm lại được cậu ấy.
- Chú Warrington ơi, chú nghĩ chuyện gì đã xảy ra với 2 cậu? - Bob vừa hỏi vừa lon ton chạy theo chú tài.
Cầu thang xoay quanh chính nó: Bob chóng mặt vì bước xuống cầu thang.
- Chúng ta chỉ có thể thử đoán mà thôi, Warrington nói và dừng lại để xem xét vết phấn mới trên thềm nghỉ. Nếu cậu Hannibal đang đi thì cậu ấy đã vẽ tín hiệu ngang tầm người. Tôi kết luận là có ai đó đang mang cậu ấy đi và khi người khuân vác này đặt cậu xuống đất để nghỉ 1 lúc, cậu Hannibal lợi dụng để lại dấu vết trên đường đi.
- Ai lại nghĩ ra trò đùa vác Hannibal mập vào tầng hầm này? Bob hỏi. Mà có phải là tầng hầm không? Dường như là đường hầm? thì đúng hơn.
Rất giống đường hầm của 1 lâu đài Anh quốc cũ nơi tôi đã phục vụ, - Warrington khẽ nói. Đó là 1 nơi không hấp dẫn lắm... còn về tên tuổi của kẻ khuân vác, chúng ta chỉ có thể đưa ra giả thuyết mà thôi.
Hai chú cháu đến cuối cầu thang. Ba hành lang, cái nào cũng tối tăm, đi theo 3 đường khác nhau. Và không có vết phấn nào cả.
- Ta hãy tắt đèn và lắng nghe, - chú tài quyết định. Trong bóng tối thường nghe rõ hơn.
Hai chú cháu lắng tai nghe, hít thở không khí ẩm ướt hôi mốc.
Bỗngnhiên có tiếng cạo: tiếng 1 khối đá cạ vào khối đá khác. Có ánh sáng ở hành lang chính giữa.
- Cậu Hannibal ơi, có phải cậu không? - Warrington la lên.
Trong khoảnh khắc,1 phụ nữ cầm cái đèn sáng xuất hiện ở cuối hành lang. Rồi đèn tắt đi. Có tiếng các khối đá kêu rít lên lần nữa. Sau đó chỉ có im lặng và bóng tối.
- Đi theo bà ấy! - Warrington la lên.
Chú tài lao vào hành lang, Bob khập khiễng bước theo. Khi cậu bắt kịp chú tài, chú đang dộng tay không vào bức tường bê tông hoàn toàn bằng phẳng.
- Bà ấy qua ngả này - Warrington nói. Tôi tin chắc chúng ta sẽ áp dụng biện pháp hà khắc.
Chú lấy cái búa đang đeo ở thắt lưng và bắt đầu đập vào tường. Chú sớm tìm ra 1 chỗ nghe rỗng.
Khi đó chú dùng hết sức đập búa vào, và dưới những cú đập, xi măng bắt đầu rả ra. Phần tường này thật ra là 1 cánh cửa mật, làm bằng bê tông không dày - khoảng 15 centimét - trên 1 khung sườn bằng sợi vắt. Khi Warrington có được chỗ bám, chú nắm lấy cánh cửa và lắc lư theo mọi hướg, kéo ra rồi đẩy vào. Đến lần kéo thứ tư, cửa đứt ra để lộ 1 hành lang mới không xây bằng xi măng mà đục trong đá.
- Những kẻ bắt 2 cậu đã tẩu thoát ngả này,Warrington la lên. Chắc người phụ nữ kia cũng thuộc bọn chúng. Phải đuổi theo bà ấy.
Thế là 2 vị cứu tinh bước vào đường hầm. Hai chú cháu vừa đi được vài mét, thì lối đi trở nên hẹp và thấp đến nổi phải quỳ gối mới tiến tới được. Khi cúi xuống, đèn của Warrington va vào tưòng. Đèn rớt ra khỏi tay chú và tắt đi. Bob đang mò mẫm tìm đèn. Đúng lúc đó, Bob nghe tiếng cánh vỗ và 1 tiếng kêu. Một vật mềm đập vào ngực Bob trong bóng tối và dội lại. Một vật khác - mềm mại và có lông - trúng vào đầu Bob.
- Dơi! Bob thét lên. Chú Warrington? ơi! Chúng ta bị dơi khổng lồ tấn công!
- Bình tĩnh nào, Warrington đáp. Không nên hốt hoảng.
Vẫn quỳ gối, Warrington còn đang tìm cái đèn. Bob lấy tay che đầu lại. Những con vật lớn đang tung hoành xung quanh Bob. Một con trong chúng định đậu lên đầu cậu. Bob la lên và dùng nắm đấm đẩy nó ra.
- Chú Warrington ơi! Chúng to bằng chim bồ câu! Đó là những con dơi hút máu!
- Tôi nghĩ không phải đâu, cậu Bob ạ - chú tài nói.
Chú vừa mới tìm thấy đèn và bật lên. Chú hướng thẳng chùm sáng lên? trên cao và chiếu sáng vào hàng chục con vật có cánh đang quay xung quanh 2 chú cháu. Nhung đó là những con chim, chứ không? phải dơi: khi thấy ánh sáng, tất cả chúng tập trung về ánh sáng.
Warrington tắt đèn.
- ánh sáng thu hút chúng, - chú la lên. Chúng ta sẽ quay trở lui trong bóng tối. Cậu đưa tay cho tôi.
Bob nắm lấy bàn tay rắn chắc của chú tài xế, chú? đang mò mẫm quay trở lui. Những con chim đã biến mất: trong bóng tối chúng đã bình tĩnh lại và 2 vị cứu tinh không khó khăn trở về tầng hầm của lâu đài.
- Không cần tiếp tục đi hướng này, Warrington giải thích.Người phụ nữ mà chúng ta đuổi theo đã đi trước quá xa để chúng ta có thể bắt kịp, mà lối đi cũng quá chật hẹp để 2 tù nhân có thể được đem đi bằng con đường đó. Mà chúng ta cũng không nhìn thấy vết phấn nào ở phía ấy.
Chú tài xế vừa giải thích xong là có tiếng la vang lên. Không còn nghi ngờ gì nữa: đó là giọng nói của Hannibal, sau đó có tiếng của Peter kèm theo ngay.
Đi theo những tiếng kêu ấy, chú tài xế và Bob trở vào hành lang mà 2 chú cháu đã vào trước đó, khi đuổi theo người phụ nữ thoáng nhìn thấy. Trong lúc vội vàng, 2 chú cháu không nhìn thấy 1 cánh cửa bên hông, và giờ 2 chú cháu dễ dàng mở cửa ra.
Cửa này dẫn vào 1 xà lim thật sự, có những khoen sắt gắn trên tường. Peter và Hannibal nằm dưới đất, bị cột chặt như những khúc xúc xích. Thay vì cảm ơn những vị cứu tinh của mình, 2 cậu phản đối: tại sao không nghe thấy tiếng kêu của 2 cậu sớm hơn?
Trong khi cắt dây trói, Warrington giải thích rằng tiếng ồn mà chú đã gây nên khi đập phá cánh cửa bê tông đã át tiếng kêu của 2 tù nhân.
- Phải ra ngay khỏi đây và báo cảnh sát - chú tài xế kết luận trong khi Hannibal và Peter, đang phủ áo quần, lại được tự do và trong tư thế thẳng đứng - những người này nguy hiểm. Chúng bỏ các cậu vào phòng giam này để cho các cậu chết luôn trong đó.
Hannibal không chú ý đến lời nói của chú. Cậu đang lắng nghe Bob kể chuyện về cuộc chiến đấu với những con chim.
- Loại chim gì? Thám tử trưởng hỏi.
- Loại chim gì hả? Bob tức giận nói lại. Mình không hỏi chúng. Nhưng xét theo cung cách của chúng, thì đó là những con chim săn mồi!
- Thật ra chúng vô hại, Warrington nói tiếp. Chúng chỉ bị thu hút bởi ánh đèn. Thưa cậu Hannibal, dường như là két.
- Két!
Hannibal giật nảy mình.
- Vậy thì hãy theo mình, cậu la lên. Phải hành động nhanh!
Rồi cầm lấy cái đèn, cậu bước ra khỏi hầm giam theo nhịp bước chạy đua.
- Cớ gì mà cậu nổi nóng lên thế? -Peter hỏi Bob.
- Chắc là có ý nghĩ gì mới - Bob nói. Dù gì, bọn mình không thể cậu ấy đi 1 mình, dù cậu ấy có đi đâu đi nữa.
- Chắc chắn rồi, Warrington nói thêm. Ta hãy đi theo, các cậu ơi!
Đó thật sự là cuộc chạy phi nứoc đại theo Hannibal, tuy chân bị băng nhưng cậu ta đã đi trước được 50 mét rồi. Peter đi theo cậu; Warrington ở lại phía sau để giúp Bob. Khi 2 chú cháu bước vào đường hầm, họ nhìn thấy đèn của 2 cậu kia rất xa ở phía trước, đang nhảy nhót trong bóng tối.
Không chú ý đến những con két bay xung quanh, 3 cậu thám tử và chú tài xế mạnh ai nấy chạy, leo bò. Cuối cùng Warrington và Bob đến 1 khúc đường hầm thẳng, ở cuối có 2 ánh đèn đi trước đang dừng lại. Hai chú cháu nhanh chân lên, bước qua cánh cửa mở và vào 1 cái lồng chim rộng lớn, đầy két. Hannibal và Peter đang ở trong đó.
- Chúng ta đang ở trong lồng chim nơi ông Rex nuôi két, - Hannibal thông báo. Nói cách khác, đầu vực hẻm đen và đầu Valley Road nằm cách nhau 30 mét, chỉ bị phân chia bởi 1 sườn núi không thể nào vượt qua được. Vì vực hẻm và thung lũng có đầu ra cách nhau hàng chục cây số, mình klhông nghĩ đầu vào có thể gần nhau đến thế.
Sau khi đưa ra lời giải thích đầu tiên này, thám tử trưởng đẩy cổng sắt đóng lồng chim và phóng ra ngoài, cùng tất cả các bạn đồng hành. Khi đó mọi người đang đứng trước cửa nhà ông Rex. Qua cửa sổ, có thể nhìn thấy chính ông Rex đang thản nhiên chơi bài với 1 người vóc dáng nhỏ và tóc bù xù.
- Tắt hết ánh sáng! - Hannibal ra lệnh. Chúng ta sẽ gây bất ngờ cho Kẻ Thì Thầm.
Mỗi người tắt đèn pin đi. Hannibal đi vòng qua ngôi nhà và bấm chuông ở cửa vào. Vài giây sau, cánh cửa mở ra. Ông Rex, vẻ mặt dữ tợn, xuất hiện trên thềm. Lần đầu tiên, Bob có thể chính mình nhận thấy cựu ông bầu có vẻ hung dữ như thế nào, với cái đầu cạo trọc và vết sẹo khủng khiếp ở cổ.
- Sao? Chuyện gì vậy? Người đàn ông thì thầm, nét mặt không thân thiện.
- Chúng tôi muốn xin được nói vài lời cùng ông, thưa ông Rex, Hannibal giải thích.
- Thế nếu tôi trả lời là tôi không thích bị quấy rầy bất kỳ giờ nào ban ngày và ban đêm?
- Nếu thế, thì chúng tôi sẽ buộc phải yêu cầu cảnh sát can thiệp - Warrington nói.
- Không cần, không cần, Rex thì thầm lo sợ. Xin mời vào.
4 vị khách bước vào phòng, nơi 1 người đàn ông khác - rất nhỏ, chỉ cao hơn 1 mét rưỡi 1 chút - vẫn còn đang ngồi trước bàn chơi.
- Bạn thân của tôi, Charles Grant, Rex giới thiệu. Charles ơi, đây là những cậu quan tâm đến Lâu Đài Kinh Hoàng. Sao các cháu đã tìm thấy ma chưa?
- Dạ, rồi ạ - Hannibal trả lời bằng 1 giọng cương quyết. Chúng tôi đã giải được bí ẩn lâu đài.
Cậu có vẻ tự tin đến nỗi Peter và Bob kinh ngạc nhìn bạn. Phải chăng các cậu đã giải được 1 cái gì đó? Nếu có, thì Peter và Bob đã giải mà không hề hay biết.
- Thế à! Kẻ Thì Thầm nói. Vậy thì bí mật ấy là gì?
- Thế này. Chính ông và ông Grant là những con ma của lâu đài làm cho mọi người sợ. Ngoài ra, cách đây vài phút, các chú đã trói Peter Crentch và cháu, và các chú đã bỏ tụi cháu trong hầm kín.
1 nét hung dữ thoáng qua trên gương mặt của Kẻ Thì Thầm, hung dữ đến nỗi Warrington nắm chặt hơn tay cầm của cái búa.
- Cậu đưa ra 1 lời tố cáo rất nghiêm trọng, cậu ạ - Rex thì thầm. Và tôi dám cá cậu không đưa ra bằng chứng được.
Đó chính là điều Peter đang nghĩ. Phải chăng Hannibal đã mất trí? 1 người phụ nữ Anh và 1 bà già Bôhem đã trói 2 tù nhân lại mà, có phải không?
- Các chú hãy nhìn xuống đôi giày mình, Hannibal đáp. Cháu đã đánh dấu hiệu của tụi cháu vào đó, trong khi các chú trói tụi cháu lại.
Tất cả mọi ánh mắt nhìn hướng xuống chân 2 người đàn ông.
Trên 4 chiếc giày, ngay chỗ ngón chân cái, có dấu chấm hỏi vẽ bằng phấn.
- Cậu Bob ơi - cuối cùng Warrington nói, có lẽ chúng ta phải đi tìm 2 cậu kia thôi.
- Nhưng, chú Warrington ơi, chú không được phép bỏ xe.
- Cậu Hannibal và cậu Peter quan trong hơn bất kỳ chiếc xe nào. Tôi sẽ đi tìm 2 cậu.
Tài xế lại ra khỏi xe 1 lần nữa và mở cốp sau, lấy cái đèn pin lớn ra.
- Cháu đi cùng chú, chú Warrington ạ - Bob tuyên bố. Đó là bạn của cháu mà.
- Tốt ta sẽ cùng đi.
Warrington còn cẩn thận mang theo cái búa lớn, phòng trường hợp sẽ cần vũ khí. Rồi 2 chú cháu lên đường. Máy chỉnh hình đeo ở chân hơi vướng Bob khi bước, nhấtlà khi muốn bước nhanh bằng Warrington, chân chú ấy rất dài, nhưng chú tài giúp Bob trèo qua những khối đá sụt lở, chẳng bao lâu 2 chú cháu đến cửa vào Lâu đài kinh hoàng.
Hai chú cháu nhận thấy ngay rằng cửa chính không có tay cầm và do đó không thể mở rả? từ bên ngoài được. Warrington nhìn thấy tay cầm bỏ rơi dưới nền đất lót đan.
- Vậy là 2 cậu không vào ngã này - Warrington nói. Ta hãy tìm chỗ khác.
Hai chú cháu đi dọc theo mặt trước của lâu đài, dùng đèn pin quét lên những cửa sổ lớn. Chính Bob tìm ra dấu chấm hỏi lớn gần cửa sổ? lớn? hé mở.
- Hai bạn vào ngả này!- Bob la lên.
Rồi Bob giải thích cho Warrington về hệ thống dấu vết của 3 cậu thám tử trẻ.
Chú tài đẩy cửa và bước vào, Bob theo cùng. Đèn pin mạnh của Warrington chiếu sáng l phòng ăn rộng lớn.
- Nhiều cửa quá. Không có cửa nào đánh dấu cả. Hai cậu đi ngả nào nhỉ? - Warrington? hỏi.
Bob chỉ vào dấu chấm hỏi vẽ trên tấm gương.
- Chẳng lẽ 2 cậu đi xuyên qua gương, Warrington thắc mắc nói. Xem nào...
Chú nắm lấy khung gương và ngạc nhiên thấy nó xoay? như một cánh cửa.? Phía sau là 1 hành lang hẹp kéo dài ra.
- Cánh cửa bí? mật! Chắc là 2 cậu đi ngả này. Chúng ta hãy làm theo.
Bob không tin chắc là mình sẽ có đủ can đảm 1 mình chui vào hành lang tối như hũ nút??? này, nhưng Warrington không do dự 1 giây và Bob đành phải đi theo.
Cuối hành lang có 1 cánh cửa và trên cánh cửa là dấu chấm hỏi màu trắng của thám tử trưởng. Hai chú cháu bước vào và rơi vào phòng chiếu. Warrington chiếu sáng lên những tấm rèm nhung, những cái ghế nhung lông, cây đàn orgue đầy bụi bậm, tất cả trong tình trạng rất suy tàn. Nhung không thấy dấu vết Hannibal và Peter.
Bỗng nhiên Bob nhìn thấy ánh sáng dưới 1 cái ghế. Cậu cúi xuống và lượm 1 cái đèn pin lên.
Chú Warrington? ơi! Đèn của Peter, Đèn mới!
- Chắc chắn cậu Peter không quên nó ở đây đâu - chú tài la lên. Ở đây chắc là có chuyện gì xảy ra. Ta hãy tìm kiếm cẩn thận.
Hai chú cháu bò xuống trong lối đi chính giữa hàng ghế; Warrington chiếu sáng sát gần thảm.
- Cậu xem này, chú nói. Bụi được quét trên 1 diện tích lớn.
Warrington nói đúng. Ngay chính giữa diện tích được quét sạch như thế, có 1 dấu chấm hỏi gần như không nhận ra được... Warrington có vẻ lo lắng nhưng chú không nói ra những gì chú e sợ. Chú đứng dậy và tiếp tục tìm kiếm. Cuối cùng chú tìm thấy trong lớp bụi những dấu chân đi vòng qua ghế, đi qua phía sau màn ảnh? mục nát và dẫn đến 1 cánh cửa. Phía sau cánh cửa có 1 tiền sảnh. Một cầu thang đi xuống đâm sâu vào bóng tối. Phải leo lên thang lầu hay bước vào độ sâu của tiền sảnh? Chú tài còn đang phân vân, thì chù nhìn thấy 1 dấu chấm hỏi vẽ yếu ớt trên bậc thềm trên cầu thang.
- Cậu Hannibal rất tài tình. Cậu đã cung cấp cho chúng ta tất cả mọi chỉ dẫn cần thiết? để tìm lại được cậu ấy.
- Chú Warrington ơi, chú nghĩ chuyện gì đã xảy ra với 2 cậu? - Bob vừa hỏi vừa lon ton chạy theo chú tài.
Cầu thang xoay quanh chính nó: Bob chóng mặt vì bước xuống cầu thang.
- Chúng ta chỉ có thể thử đoán mà thôi, Warrington nói và dừng lại để xem xét vết phấn mới trên thềm nghỉ. Nếu cậu Hannibal đang đi thì cậu ấy đã vẽ tín hiệu ngang tầm người. Tôi kết luận là có ai đó đang mang cậu ấy đi và khi người khuân vác này đặt cậu xuống đất để nghỉ 1 lúc, cậu Hannibal lợi dụng để lại dấu vết trên đường đi.
- Ai lại nghĩ ra trò đùa vác Hannibal mập vào tầng hầm này? Bob hỏi. Mà có phải là tầng hầm không? Dường như là đường hầm? thì đúng hơn.
Rất giống đường hầm của 1 lâu đài Anh quốc cũ nơi tôi đã phục vụ, - Warrington khẽ nói. Đó là 1 nơi không hấp dẫn lắm... còn về tên tuổi của kẻ khuân vác, chúng ta chỉ có thể đưa ra giả thuyết mà thôi.
Hai chú cháu đến cuối cầu thang. Ba hành lang, cái nào cũng tối tăm, đi theo 3 đường khác nhau. Và không có vết phấn nào cả.
- Ta hãy tắt đèn và lắng nghe, - chú tài quyết định. Trong bóng tối thường nghe rõ hơn.
Hai chú cháu lắng tai nghe, hít thở không khí ẩm ướt hôi mốc.
Bỗngnhiên có tiếng cạo: tiếng 1 khối đá cạ vào khối đá khác. Có ánh sáng ở hành lang chính giữa.
- Cậu Hannibal ơi, có phải cậu không? - Warrington la lên.
Trong khoảnh khắc,1 phụ nữ cầm cái đèn sáng xuất hiện ở cuối hành lang. Rồi đèn tắt đi. Có tiếng các khối đá kêu rít lên lần nữa. Sau đó chỉ có im lặng và bóng tối.
- Đi theo bà ấy! - Warrington la lên.
Chú tài lao vào hành lang, Bob khập khiễng bước theo. Khi cậu bắt kịp chú tài, chú đang dộng tay không vào bức tường bê tông hoàn toàn bằng phẳng.
- Bà ấy qua ngả này - Warrington nói. Tôi tin chắc chúng ta sẽ áp dụng biện pháp hà khắc.
Chú lấy cái búa đang đeo ở thắt lưng và bắt đầu đập vào tường. Chú sớm tìm ra 1 chỗ nghe rỗng.
Khi đó chú dùng hết sức đập búa vào, và dưới những cú đập, xi măng bắt đầu rả ra. Phần tường này thật ra là 1 cánh cửa mật, làm bằng bê tông không dày - khoảng 15 centimét - trên 1 khung sườn bằng sợi vắt. Khi Warrington có được chỗ bám, chú nắm lấy cánh cửa và lắc lư theo mọi hướg, kéo ra rồi đẩy vào. Đến lần kéo thứ tư, cửa đứt ra để lộ 1 hành lang mới không xây bằng xi măng mà đục trong đá.
- Những kẻ bắt 2 cậu đã tẩu thoát ngả này,Warrington la lên. Chắc người phụ nữ kia cũng thuộc bọn chúng. Phải đuổi theo bà ấy.
Thế là 2 vị cứu tinh bước vào đường hầm. Hai chú cháu vừa đi được vài mét, thì lối đi trở nên hẹp và thấp đến nổi phải quỳ gối mới tiến tới được. Khi cúi xuống, đèn của Warrington va vào tưòng. Đèn rớt ra khỏi tay chú và tắt đi. Bob đang mò mẫm tìm đèn. Đúng lúc đó, Bob nghe tiếng cánh vỗ và 1 tiếng kêu. Một vật mềm đập vào ngực Bob trong bóng tối và dội lại. Một vật khác - mềm mại và có lông - trúng vào đầu Bob.
- Dơi! Bob thét lên. Chú Warrington? ơi! Chúng ta bị dơi khổng lồ tấn công!
- Bình tĩnh nào, Warrington đáp. Không nên hốt hoảng.
Vẫn quỳ gối, Warrington còn đang tìm cái đèn. Bob lấy tay che đầu lại. Những con vật lớn đang tung hoành xung quanh Bob. Một con trong chúng định đậu lên đầu cậu. Bob la lên và dùng nắm đấm đẩy nó ra.
- Chú Warrington ơi! Chúng to bằng chim bồ câu! Đó là những con dơi hút máu!
- Tôi nghĩ không phải đâu, cậu Bob ạ - chú tài nói.
Chú vừa mới tìm thấy đèn và bật lên. Chú hướng thẳng chùm sáng lên? trên cao và chiếu sáng vào hàng chục con vật có cánh đang quay xung quanh 2 chú cháu. Nhung đó là những con chim, chứ không? phải dơi: khi thấy ánh sáng, tất cả chúng tập trung về ánh sáng.
Warrington tắt đèn.
- ánh sáng thu hút chúng, - chú la lên. Chúng ta sẽ quay trở lui trong bóng tối. Cậu đưa tay cho tôi.
Bob nắm lấy bàn tay rắn chắc của chú tài xế, chú? đang mò mẫm quay trở lui. Những con chim đã biến mất: trong bóng tối chúng đã bình tĩnh lại và 2 vị cứu tinh không khó khăn trở về tầng hầm của lâu đài.
- Không cần tiếp tục đi hướng này, Warrington giải thích.Người phụ nữ mà chúng ta đuổi theo đã đi trước quá xa để chúng ta có thể bắt kịp, mà lối đi cũng quá chật hẹp để 2 tù nhân có thể được đem đi bằng con đường đó. Mà chúng ta cũng không nhìn thấy vết phấn nào ở phía ấy.
Chú tài xế vừa giải thích xong là có tiếng la vang lên. Không còn nghi ngờ gì nữa: đó là giọng nói của Hannibal, sau đó có tiếng của Peter kèm theo ngay.
Đi theo những tiếng kêu ấy, chú tài xế và Bob trở vào hành lang mà 2 chú cháu đã vào trước đó, khi đuổi theo người phụ nữ thoáng nhìn thấy. Trong lúc vội vàng, 2 chú cháu không nhìn thấy 1 cánh cửa bên hông, và giờ 2 chú cháu dễ dàng mở cửa ra.
Cửa này dẫn vào 1 xà lim thật sự, có những khoen sắt gắn trên tường. Peter và Hannibal nằm dưới đất, bị cột chặt như những khúc xúc xích. Thay vì cảm ơn những vị cứu tinh của mình, 2 cậu phản đối: tại sao không nghe thấy tiếng kêu của 2 cậu sớm hơn?
Trong khi cắt dây trói, Warrington giải thích rằng tiếng ồn mà chú đã gây nên khi đập phá cánh cửa bê tông đã át tiếng kêu của 2 tù nhân.
- Phải ra ngay khỏi đây và báo cảnh sát - chú tài xế kết luận trong khi Hannibal và Peter, đang phủ áo quần, lại được tự do và trong tư thế thẳng đứng - những người này nguy hiểm. Chúng bỏ các cậu vào phòng giam này để cho các cậu chết luôn trong đó.
Hannibal không chú ý đến lời nói của chú. Cậu đang lắng nghe Bob kể chuyện về cuộc chiến đấu với những con chim.
- Loại chim gì? Thám tử trưởng hỏi.
- Loại chim gì hả? Bob tức giận nói lại. Mình không hỏi chúng. Nhưng xét theo cung cách của chúng, thì đó là những con chim săn mồi!
- Thật ra chúng vô hại, Warrington nói tiếp. Chúng chỉ bị thu hút bởi ánh đèn. Thưa cậu Hannibal, dường như là két.
- Két!
Hannibal giật nảy mình.
- Vậy thì hãy theo mình, cậu la lên. Phải hành động nhanh!
Rồi cầm lấy cái đèn, cậu bước ra khỏi hầm giam theo nhịp bước chạy đua.
- Cớ gì mà cậu nổi nóng lên thế? -Peter hỏi Bob.
- Chắc là có ý nghĩ gì mới - Bob nói. Dù gì, bọn mình không thể cậu ấy đi 1 mình, dù cậu ấy có đi đâu đi nữa.
- Chắc chắn rồi, Warrington nói thêm. Ta hãy đi theo, các cậu ơi!
Đó thật sự là cuộc chạy phi nứoc đại theo Hannibal, tuy chân bị băng nhưng cậu ta đã đi trước được 50 mét rồi. Peter đi theo cậu; Warrington ở lại phía sau để giúp Bob. Khi 2 chú cháu bước vào đường hầm, họ nhìn thấy đèn của 2 cậu kia rất xa ở phía trước, đang nhảy nhót trong bóng tối.
Không chú ý đến những con két bay xung quanh, 3 cậu thám tử và chú tài xế mạnh ai nấy chạy, leo bò. Cuối cùng Warrington và Bob đến 1 khúc đường hầm thẳng, ở cuối có 2 ánh đèn đi trước đang dừng lại. Hai chú cháu nhanh chân lên, bước qua cánh cửa mở và vào 1 cái lồng chim rộng lớn, đầy két. Hannibal và Peter đang ở trong đó.
- Chúng ta đang ở trong lồng chim nơi ông Rex nuôi két, - Hannibal thông báo. Nói cách khác, đầu vực hẻm đen và đầu Valley Road nằm cách nhau 30 mét, chỉ bị phân chia bởi 1 sườn núi không thể nào vượt qua được. Vì vực hẻm và thung lũng có đầu ra cách nhau hàng chục cây số, mình klhông nghĩ đầu vào có thể gần nhau đến thế.
Sau khi đưa ra lời giải thích đầu tiên này, thám tử trưởng đẩy cổng sắt đóng lồng chim và phóng ra ngoài, cùng tất cả các bạn đồng hành. Khi đó mọi người đang đứng trước cửa nhà ông Rex. Qua cửa sổ, có thể nhìn thấy chính ông Rex đang thản nhiên chơi bài với 1 người vóc dáng nhỏ và tóc bù xù.
- Tắt hết ánh sáng! - Hannibal ra lệnh. Chúng ta sẽ gây bất ngờ cho Kẻ Thì Thầm.
Mỗi người tắt đèn pin đi. Hannibal đi vòng qua ngôi nhà và bấm chuông ở cửa vào. Vài giây sau, cánh cửa mở ra. Ông Rex, vẻ mặt dữ tợn, xuất hiện trên thềm. Lần đầu tiên, Bob có thể chính mình nhận thấy cựu ông bầu có vẻ hung dữ như thế nào, với cái đầu cạo trọc và vết sẹo khủng khiếp ở cổ.
- Sao? Chuyện gì vậy? Người đàn ông thì thầm, nét mặt không thân thiện.
- Chúng tôi muốn xin được nói vài lời cùng ông, thưa ông Rex, Hannibal giải thích.
- Thế nếu tôi trả lời là tôi không thích bị quấy rầy bất kỳ giờ nào ban ngày và ban đêm?
- Nếu thế, thì chúng tôi sẽ buộc phải yêu cầu cảnh sát can thiệp - Warrington nói.
- Không cần, không cần, Rex thì thầm lo sợ. Xin mời vào.
4 vị khách bước vào phòng, nơi 1 người đàn ông khác - rất nhỏ, chỉ cao hơn 1 mét rưỡi 1 chút - vẫn còn đang ngồi trước bàn chơi.
- Bạn thân của tôi, Charles Grant, Rex giới thiệu. Charles ơi, đây là những cậu quan tâm đến Lâu Đài Kinh Hoàng. Sao các cháu đã tìm thấy ma chưa?
- Dạ, rồi ạ - Hannibal trả lời bằng 1 giọng cương quyết. Chúng tôi đã giải được bí ẩn lâu đài.
Cậu có vẻ tự tin đến nỗi Peter và Bob kinh ngạc nhìn bạn. Phải chăng các cậu đã giải được 1 cái gì đó? Nếu có, thì Peter và Bob đã giải mà không hề hay biết.
- Thế à! Kẻ Thì Thầm nói. Vậy thì bí mật ấy là gì?
- Thế này. Chính ông và ông Grant là những con ma của lâu đài làm cho mọi người sợ. Ngoài ra, cách đây vài phút, các chú đã trói Peter Crentch và cháu, và các chú đã bỏ tụi cháu trong hầm kín.
1 nét hung dữ thoáng qua trên gương mặt của Kẻ Thì Thầm, hung dữ đến nỗi Warrington nắm chặt hơn tay cầm của cái búa.
- Cậu đưa ra 1 lời tố cáo rất nghiêm trọng, cậu ạ - Rex thì thầm. Và tôi dám cá cậu không đưa ra bằng chứng được.
Đó chính là điều Peter đang nghĩ. Phải chăng Hannibal đã mất trí? 1 người phụ nữ Anh và 1 bà già Bôhem đã trói 2 tù nhân lại mà, có phải không?
- Các chú hãy nhìn xuống đôi giày mình, Hannibal đáp. Cháu đã đánh dấu hiệu của tụi cháu vào đó, trong khi các chú trói tụi cháu lại.
Tất cả mọi ánh mắt nhìn hướng xuống chân 2 người đàn ông.
Trên 4 chiếc giày, ngay chỗ ngón chân cái, có dấu chấm hỏi vẽ bằng phấn.
Danh sách chương