Ba Thám Tử Trẻ và ông Prentice chạy nhanh sang nhà thờ. Hai người đàn ông mặc áo trắng mang băng ca vừa mới bước ra. Earl, người bảo vệ, nằm trên đó, có tấm chăn che phủ đến tận cằm.
Cha McGovern bước ra cùng bà O''Reilly to miệng.
- Cậu ấy chết rồi! - Người đàn bà rên rỉ - Bị giết! Bị ám sát! Chết mất rồi!
- Chị O''Reilly à, cậu ấy chưa chết mà, đội ơn Chúa!
Mặt ông linh mục tái xanh. Tay ông run run khi khóa cửa nhà thờ.
- Lẽ ra tôi phải trở lại với cậu ấy tối hôm qua và giúp cậu ấy đóng cửa nhà thờ. Đây không phải lần đầu tiên cậu ấy té ngã, nhưng lại để cậu ấy nằm trong đài đồng ca suốt cả đêm là không được!
Vị linh mục bước xuống bậc thềm.
- Lỗi tại tôi vì đã để cậu ấy tự làm - ông nói - Cậu ấy tắt hết phần lớn đèn và cứ mò mẫm trong bóng tối. Cậu ấy nghĩ mình tiết kiệm tiền giúp giáo xứ.
- Cậu ấy chẳng tiết kiệm được gì khi làm chuyện điên rồ như thế - bà O''Reilly nói - Ai sẽ làm phần việc của cậu ấy khi cậu ấy phí thời gian nằm bệnh viện
- Kìa, chị đừng có la toáng lên về chuyện này - vị linh mục nói - Hay chị đi về... và pha cho mình một tách trà ngon đi? Cha xứ bước lên phía sau xe cứu thương. Cửa xe đóng lại rồi chạy biến đi.
- Tách trà! - bà O''Reilly thốt lên - Cha nói một tách trà ngon! Ông ấy bị làm sao nhỉ? Earl bị cái lỗ trên đầu, có thể bị cô hồn kia giết chết mất rồi, vậy mà ông ấy nói về tách trà!
Bà O''Reilly đi qua trước mặt Prentice và Ba Thám Tử Trẻ, vừa lầm bầm vừa đi về hướng nhà cha xứ.
- Bị cô hồn giết chết à? - Bob nói.
- Bà ấy thích nghĩ rằng có một hồn ma trong vùng này - Fenton Prentice nói - Bà ấy khẳng định bà từng thấy, đó là hồn ma của vị linh mục trước. Ông ấy chết ba năm rồi. Bà ấy tuyên bố ông ấy hiện hồn trong nhà thờ và ngoài đường.
Ba thám tử và ông Prentice đi về hướng đại lộ Wilshire.
- À bác Prentice ơi, bác có cho rằng cô hồn ấy có thể cũng là cái bóng mà bác thấy trong căn hộ bác không? - Bob hỏi.
- Chắc chắn là không rồi! - ông Prentice trả lời - Tôi biết nhận ra hồn ma của vị linh mục già - nếu thật sự có chuyện như thế. Cho đến nay, chỉ có mình bà O''Reilly là nhìn thấy ông ấy. Bà cứ khăng khăng rằng ông ấy đi dạo trong nhà thờ vào ban đêm, tay cầm đèn cầy. Tại sao ông ấy bị đày như thế, thì tôi không biết. Ông là một lão già rất tử tế. Tôi thường chơi cờ cùng ông ấy. Ông ấy có bao giờ hay đi dạo đêm đâu. Ông ấy có thói quen đi ngủ lúc mười giờ.
Ông Prentice và ba thám tử quẹo ở góc đường sang đại lộ Wilshire, đi qua vài khu nhà đến một câu lạc bộ tư. Đã quá trễ để ăn sáng và còn quá sớm để ăn trưa. Ngoại trừ người hầu bàn lảng vảng gần cửa nhà bếp, còn chỉ có ông Prentice và Ba Thám Tử Trẻ trong phòng ăn.
- Bác Prentice ơi - Hannibal nói khi thức ăn đã được dọn xong - toà nhà căn hộ khá rộng lớn, nhưng cháu không thấy bao nhiêu người ở đó. Có bà Bortz...
Ông Prentice nhăn mặt khó chịu.
- Bà Bortz - Hannibal lập lại - rồi Sonny Elmquist. Anh ấy có vẻ ở nhà vào những giờ không bình thường.
- Cậu ấy làm việc từ mười hai giờ khuya cho đến sáng ở chợ Vermont - Prentice nói - Một chàng thanh niên lạ lùng. Cậu ấy ở căn hộ nhỏ nhất trong tòa nhà. Có lẽ cậu ấy không kiếm được nhiều tiền lắm. Còn có một người phụ nữ trẻ tên là Chalmers - Gwen Chalmers - ở căn hộ bên cạnh Elmquist. Các cậu chưa gặp cô ấy. Cô ấy làm việc ở bộ phận thu mua cho một cửa hàng bách hoá ở trung tâm. Ông Murphy là người môi giới chứng khoán.
- Là người leo lên các bậc thềm tối hôm qua, sau khi cảnh sát đi rồi - Bob nói.
- Đúng. Ông ấy ở căn hộ trong góc phía sau lưng nhà.
Có thể các cậu sẽ gặp ông trễ hơn hôm nay. Ông ấy đi làm rất sớm, bởi vì thị trường chứng khoán mở cửa rất sớm ở New York và chúng ta đi sau ba tiếng so với bờ phía Đông. Ông ấy có thể ở nhà bất cứ giờ nào sau mười hai giờ trưa. Cháu ông ấy là Harley Johnson, học sinh trung học, hiện đang ở chung với ông ấy. Tôi hiểu rằng Murphy là người giám hộ Harley. Rồi còn có Alex Hassel, người mèo.
- Người mèo à? - Peter hỏi lại.
Fenton Prentice mỉm cười.
- Tôi cứ hay nghĩ về ông ấy kiểu đó. Các cậu biết không, ông ấy thích cho mèo ăn. Cứ mỗi tối lúc năm giờ, mọi con mèo đi lạc trong khu phố tập trung lại trước cửa nhà ông rồi ông ấy cho chúng ăn. Ông ấy còn nuôi một con mèo Thái trong căn hộ.
- Thế ông ấy làm gì khi không bận cho mèo ăn? - Peter hỏi.
- Ông Hassel không có việc làm - Prentice nói - Ông ấy có tiền riêng, nên ông đi lại tùy thích. Tôi nghĩ ông ấy đi khắp thành phố tìm mèo lạc để cho chúng ăn. Nếu chúng bệnh hoặc bị thương, thì ông ấy mang chúng đến bác sĩ thú y.
- Còn ai sống trong tòa nhà đó nữa? - Hannibal hỏi.
- Một số những người không có gì đặc biệt cả. Có tất cả hai chục căn hộ. Phần lớn người thuê là độc thân và đều đi làm. Ngoài ra, phần lớn đi vắng vì đi nghỉ, thăm bạn bè người thân. Hiện, chỉ có sáu chúng tôi đang ở nhà. Nếu tính luôn Harley, cháu của ông Murphy là bảy.
- Như vậy sẽ rút ngắn danh sách nghi can của ta - Hannibal nói.
Prentice nhìn xoáy vào Hannibal.
- Vậy cậu nghĩ có một người nào đó trong tòa nhà rình rập theo dõi tôi à?
- Cháu sẽ chắc chắn hoàn toàn khi ta có thêm chứng cứ - Hannibal trả lời - Nhưng có lẽ thủ phạm là một người nào đó biết được khi nào thì bác không có ở nhà. Nếu hắn thấy ta ra đi sáng nay, thì có thể hắn lợi dụng cơ hội để rình mò.
Ông Prentice nhún vai.
- Có thể cậu nghĩ đúng - Hannibal à - Nếu có ai muốn mở tủ bàn của tôi sáng nay, thì có thừa thời gian làm mà.
Prentice gọi hầu bàn mang phiếu tính tiền ra, ký vào. Ông cùng Ba Thám Tử Trẻ ra khỏi câu lạc bộ, đi trên đại lộ Wilshire đến Paseo Place. Đường vắng vẻ khi bốn người đi ngang qua nhà thờ. Cả nhóm đến tòa nhà căn hộ, bước lên bậc thềm. Trong căn hộ ngay cổng, nơi bà Bortz ở, có tiếng nước chảy và chén dĩa kêu leng keng trong bồn rửa.
- Đội ơn trời rằng thỉnh thoảng con mụ kia vẫn phải ăn uống - Prentice nói - nếu không ta sẽ không có được giây phút riêng tư nào.
Peter cười.
- Bà ấy có mặt trên từng cây số.
- Một mụ nhiều chuyện bẩm sinh - Prentice nói - mụ hay hỏi những câu soi mói vô duyên nhất. Thậm chí mụ còn dám lục thùng rác. Tôi từng bắt gặp mụ làm thế nhiều lần. Mà nếu không nhìn thấy thì tôi cũng đoán ra rằng mụ làm việc này. Chứ làm sao mụ biết được rằng cô Gwen Chalmers ăn đồ đông lạnh vào buổi tối hoặc biết rằng lũ mèo đi lạc của ông Hassel tiêu thụ hơn bốn chục lon đồ ăn trong một tuần.
Ba Thám Tử Trẻ đi theo ông Prentice đến căn hộ, ông mở khóa cửa ra.
- Bác đừng chạm vào bất cứ thứ gì - Hannibal căn dặn .
Thám tử trường lấy kính lúp nhỏ ra khỏi túi rồi bước vào phòng làm việc, nhìn kỹ các ngăn kéo bàn viết.
- À há! - Hannibal kêu lên.
Fenton Prentice bước nhanh vào theo.
- Có kẻ đã mở ngăn kéo này từ khi ta đi sáng nay! - Jones báo cáo - Một kẻ có bàn tay người bình thường. Thuốc bôi bị mất đi.
Bob vào nhà bếp, lấy khăn giấy. Hannibal lau sạch tay cầm ngăn kéo.
- Cháu mở ngăn kéo ra được không ạ? - Hannibal hỏi ông Prentice.
- Dĩ nhiên.
Hannibal kéo ngăn kéo trên cùng ra.
- Có mất gì không ạ?
- Không bao giờ mất gì cả - Prentice nói - nhưng có kẻ xem hoá đơn điện thoại. Nó nằm ở cuối ngăn sáng nay.
- Kẻ di chuyển hoá đơn đã làm bẩn phong bì. Chắc hắn phải bị dính một lượng thuốc bôi rất nhiều trên tay - Hannibal hài lòng nhận xét.
Hannibal bước qua phòng khách ra cửa. Thám tử trưởng cúi xuống nhìn kỹ tay cầm.
- Cháu không hề bôi thuốc trên tay cầm này - Hannibal nhắc - nhưng bây giờ lại có vết bẩn trên đó.
- Vậy bây giờ ta biết kẻ rình rập đã ra đi như thế nào - Bob nói, mở cửa và đi ra.
- Rồi cài chốt phía sau - Hannibal nói.
Hannibal mở cửa ra, xem xét chốt cài bên ngoài. Có vết dính thuốc bôi.
- Đúng - Hannibal nói - Có kẻ có chìa khóa.
- Không thể có chuyện đó được! - Fenton Prentice thốt lên - Đây là một ổ khóa đặc biệt do tôi đặt làm. Không thể có ai có chìa khóa được!
- Có kẻ có chìa khóa - Hannibal lập lại.
Cửa lại được đóng, ba thám tử và ông Prentice tiếp tục khám xét căn hộ. Có nhiều vết bẩn hơn trên mép gương trong nhà tắm.
- Kẻ xâm nhập đã xem tủ thuốc của bác - Hannibal nói với ông Prentice.
Ông Prentice kêu lên một tiếng tức giận.
- Thôi, ít nhất ta cũng có tiến bộ - Hannibal nói.
- Thế à? - Prentice hỏi.
- Chắc chắn rồi - giọng Hannibal rất tự tin - ta biết rằng con ma ám nhà bác không thể mở tủ mà không bị dính thuốc vào tay. Sáng nay hắn ra khỏi nơi này rất bình thường, bằng cách mở cửa căn hộ. Ta sẽ ra ngoài sân quan sát, và ta sẽ biết kẻ đó là ai.
- Lỡ không phải người sống ở đây? - Peter hỏi.
- Chắc chắn phải là người sống ở đây - Hannibal nói - một người đã nhìn thấy ta ra đi sáng nay.
Ba thám tử ra ngoài sân, ngồi xuống ghế cạnh hồ bơi, rồi chờ.
- Hồ bơi này đẹp quá - Peter nhận xét.
Bob thọc tay xuống nước rồi báo rằng nước hồ có sưởi ấm.
* * *
Tiếng chân bước vang lên trên các bậc thềm lót đan, cổng trước mở ra, một chú mèo xám chạy lon ton vào sân, đi theo sau là một người đàn ông tóc màu hơi hung đỏ mặc áo thun trắng dài tay và áo khoác màu vàng sáng. Ông nhìn ba thám tử trẻ, không tỏ ra quan tâm gì, khi băng qua sân đến một cánh cửa phía sau. Con mèo chạy theo ông, nhưng bị bỏ lại ở ngoài khi ông vào căn hộ. Vài giây sau, ông trở ra với một dĩa thức ăn, bỏ xuống nền đất lát đan. Ông ngồi xổm xuống, trong khi con mèo ngốn nghiến ăn.
- Hassel - Bob nói khẽ - ông ấy đang đi ra khi bọn mình đến tối hôm qua.
- Chắc là ông ấy tìm được một con mèo lạc mới - Peter khẳng định - một chú mèo không biết rằng giờ ăn tối là năm giờ chiều.
Con mèo ăn xong, rồi bỏ đi. Hassel cầm dĩa thức ăn trở vào nhà.
Lại có tiếng chân bước ở cầu thang bên ngoài, cổng lại mở ra. Người đàn ông trung niên khoẻ mạnh tên Murphy bước vào, ông cầm trên tay một điếu thuốc đang cháy. Ông gật đầu chào ba thám tử, mỉm cười, rồi đi về căn hộ ngay bên cạnh căn hộ của Hassel. Cửa nhà mở ra, một cậu thiếu niên mười sáu mười bảay tuổi xuất hiện đứng ngay ngưỡng cửa.
- Cậu John à, cậu có thể sống mười giây mà không hút thuốc không? - Cậu bé hỏi.
- Harley ơi, cháu đừng kiếm chuyện với cậu. Hôm nay cậu làm việc rất mệt. Gạt tàn của cậu đâu rồi?
- Cháu rửa rồi để bên hồ. Cả nhà hôi khói thuốc quá.
Murphy quay lui, tiến đến một cái bàn gần ba thám tử. Ông thả mình ngồi xuống một cái ghế, gạt ít tàn thuốc vào một cái gạt tàn to tướng hình cái tô để trên bàn, rồi tiếp tục hút.
- Hy vọng các cậu không làm khổ ông bà già ở nhà như thế này - ông nói với ba thám tử.
- Ba mẹ cháu không hút thuốc - Peter nói.
Murphy càu nhàu.
- Có lẽ tôi cũng không nên hút - ông thừa nhận - nhưng ít nhất tôi rất cẩn thận. Tôi có một cái gạt tàn y như thế ở trong văn phòng. Cho dù có quên một điếu thuốc và để cháy, thì nó cũng không thể rơi ra ngoài.
Khi Murphy đi rồi, Peter nhìn qua hồ bơi vào căn hộ của Sonny Elmquist.
- Không biết Elmquist có ở nhà không - Peter nói - rèm cửa kéo kín. Nếu ta thử bấm chuông...
- Khoan đã! - Hannibal Jones ngồi thẳng lưng lên và nói.
Bà Bortz đã bước ra sân. Bà đang dùng miếng giẻ chùi hai tay.
- Trẻ con không được phép vào khu vực hồ bơi mà không có người lớn đi cùng - bà mắng.
Hannibal không thèm trả lời. Cậu đứng dậy, đi thẳng đến gần bà .
- Thưa bà Bortz, cháu có thể xem tay bà không ạ?
- Cái gì?
- Tay của bà, thưa bà Bortz! - Hannibal đã lớn tiếng hơn.
Một cánh cửa phía trên mở ra, ông Prentice bước ra ban-công.
- Tay bà bị những vết màu đen! - Hannibal nói.
Fenton Prentice nhìn xuống.
- Sao... sao, ừ thì có - bà Bortz nói - có lẽ tôi bị dính cái gì đó trong bếp.
- Bà đã vào nhà của bác Prentice - Hannibal nghiêm khắc nói - bà đã mở tủ bàn bác ấy rồi xem thư từ bác ấy, và thậm chí bà còn mở tủ thuốc của bác ấy. Bà chính là kẻ rình rập bác ấy! a
Cha McGovern bước ra cùng bà O''Reilly to miệng.
- Cậu ấy chết rồi! - Người đàn bà rên rỉ - Bị giết! Bị ám sát! Chết mất rồi!
- Chị O''Reilly à, cậu ấy chưa chết mà, đội ơn Chúa!
Mặt ông linh mục tái xanh. Tay ông run run khi khóa cửa nhà thờ.
- Lẽ ra tôi phải trở lại với cậu ấy tối hôm qua và giúp cậu ấy đóng cửa nhà thờ. Đây không phải lần đầu tiên cậu ấy té ngã, nhưng lại để cậu ấy nằm trong đài đồng ca suốt cả đêm là không được!
Vị linh mục bước xuống bậc thềm.
- Lỗi tại tôi vì đã để cậu ấy tự làm - ông nói - Cậu ấy tắt hết phần lớn đèn và cứ mò mẫm trong bóng tối. Cậu ấy nghĩ mình tiết kiệm tiền giúp giáo xứ.
- Cậu ấy chẳng tiết kiệm được gì khi làm chuyện điên rồ như thế - bà O''Reilly nói - Ai sẽ làm phần việc của cậu ấy khi cậu ấy phí thời gian nằm bệnh viện
- Kìa, chị đừng có la toáng lên về chuyện này - vị linh mục nói - Hay chị đi về... và pha cho mình một tách trà ngon đi? Cha xứ bước lên phía sau xe cứu thương. Cửa xe đóng lại rồi chạy biến đi.
- Tách trà! - bà O''Reilly thốt lên - Cha nói một tách trà ngon! Ông ấy bị làm sao nhỉ? Earl bị cái lỗ trên đầu, có thể bị cô hồn kia giết chết mất rồi, vậy mà ông ấy nói về tách trà!
Bà O''Reilly đi qua trước mặt Prentice và Ba Thám Tử Trẻ, vừa lầm bầm vừa đi về hướng nhà cha xứ.
- Bị cô hồn giết chết à? - Bob nói.
- Bà ấy thích nghĩ rằng có một hồn ma trong vùng này - Fenton Prentice nói - Bà ấy khẳng định bà từng thấy, đó là hồn ma của vị linh mục trước. Ông ấy chết ba năm rồi. Bà ấy tuyên bố ông ấy hiện hồn trong nhà thờ và ngoài đường.
Ba thám tử và ông Prentice đi về hướng đại lộ Wilshire.
- À bác Prentice ơi, bác có cho rằng cô hồn ấy có thể cũng là cái bóng mà bác thấy trong căn hộ bác không? - Bob hỏi.
- Chắc chắn là không rồi! - ông Prentice trả lời - Tôi biết nhận ra hồn ma của vị linh mục già - nếu thật sự có chuyện như thế. Cho đến nay, chỉ có mình bà O''Reilly là nhìn thấy ông ấy. Bà cứ khăng khăng rằng ông ấy đi dạo trong nhà thờ vào ban đêm, tay cầm đèn cầy. Tại sao ông ấy bị đày như thế, thì tôi không biết. Ông là một lão già rất tử tế. Tôi thường chơi cờ cùng ông ấy. Ông ấy có bao giờ hay đi dạo đêm đâu. Ông ấy có thói quen đi ngủ lúc mười giờ.
Ông Prentice và ba thám tử quẹo ở góc đường sang đại lộ Wilshire, đi qua vài khu nhà đến một câu lạc bộ tư. Đã quá trễ để ăn sáng và còn quá sớm để ăn trưa. Ngoại trừ người hầu bàn lảng vảng gần cửa nhà bếp, còn chỉ có ông Prentice và Ba Thám Tử Trẻ trong phòng ăn.
- Bác Prentice ơi - Hannibal nói khi thức ăn đã được dọn xong - toà nhà căn hộ khá rộng lớn, nhưng cháu không thấy bao nhiêu người ở đó. Có bà Bortz...
Ông Prentice nhăn mặt khó chịu.
- Bà Bortz - Hannibal lập lại - rồi Sonny Elmquist. Anh ấy có vẻ ở nhà vào những giờ không bình thường.
- Cậu ấy làm việc từ mười hai giờ khuya cho đến sáng ở chợ Vermont - Prentice nói - Một chàng thanh niên lạ lùng. Cậu ấy ở căn hộ nhỏ nhất trong tòa nhà. Có lẽ cậu ấy không kiếm được nhiều tiền lắm. Còn có một người phụ nữ trẻ tên là Chalmers - Gwen Chalmers - ở căn hộ bên cạnh Elmquist. Các cậu chưa gặp cô ấy. Cô ấy làm việc ở bộ phận thu mua cho một cửa hàng bách hoá ở trung tâm. Ông Murphy là người môi giới chứng khoán.
- Là người leo lên các bậc thềm tối hôm qua, sau khi cảnh sát đi rồi - Bob nói.
- Đúng. Ông ấy ở căn hộ trong góc phía sau lưng nhà.
Có thể các cậu sẽ gặp ông trễ hơn hôm nay. Ông ấy đi làm rất sớm, bởi vì thị trường chứng khoán mở cửa rất sớm ở New York và chúng ta đi sau ba tiếng so với bờ phía Đông. Ông ấy có thể ở nhà bất cứ giờ nào sau mười hai giờ trưa. Cháu ông ấy là Harley Johnson, học sinh trung học, hiện đang ở chung với ông ấy. Tôi hiểu rằng Murphy là người giám hộ Harley. Rồi còn có Alex Hassel, người mèo.
- Người mèo à? - Peter hỏi lại.
Fenton Prentice mỉm cười.
- Tôi cứ hay nghĩ về ông ấy kiểu đó. Các cậu biết không, ông ấy thích cho mèo ăn. Cứ mỗi tối lúc năm giờ, mọi con mèo đi lạc trong khu phố tập trung lại trước cửa nhà ông rồi ông ấy cho chúng ăn. Ông ấy còn nuôi một con mèo Thái trong căn hộ.
- Thế ông ấy làm gì khi không bận cho mèo ăn? - Peter hỏi.
- Ông Hassel không có việc làm - Prentice nói - Ông ấy có tiền riêng, nên ông đi lại tùy thích. Tôi nghĩ ông ấy đi khắp thành phố tìm mèo lạc để cho chúng ăn. Nếu chúng bệnh hoặc bị thương, thì ông ấy mang chúng đến bác sĩ thú y.
- Còn ai sống trong tòa nhà đó nữa? - Hannibal hỏi.
- Một số những người không có gì đặc biệt cả. Có tất cả hai chục căn hộ. Phần lớn người thuê là độc thân và đều đi làm. Ngoài ra, phần lớn đi vắng vì đi nghỉ, thăm bạn bè người thân. Hiện, chỉ có sáu chúng tôi đang ở nhà. Nếu tính luôn Harley, cháu của ông Murphy là bảy.
- Như vậy sẽ rút ngắn danh sách nghi can của ta - Hannibal nói.
Prentice nhìn xoáy vào Hannibal.
- Vậy cậu nghĩ có một người nào đó trong tòa nhà rình rập theo dõi tôi à?
- Cháu sẽ chắc chắn hoàn toàn khi ta có thêm chứng cứ - Hannibal trả lời - Nhưng có lẽ thủ phạm là một người nào đó biết được khi nào thì bác không có ở nhà. Nếu hắn thấy ta ra đi sáng nay, thì có thể hắn lợi dụng cơ hội để rình mò.
Ông Prentice nhún vai.
- Có thể cậu nghĩ đúng - Hannibal à - Nếu có ai muốn mở tủ bàn của tôi sáng nay, thì có thừa thời gian làm mà.
Prentice gọi hầu bàn mang phiếu tính tiền ra, ký vào. Ông cùng Ba Thám Tử Trẻ ra khỏi câu lạc bộ, đi trên đại lộ Wilshire đến Paseo Place. Đường vắng vẻ khi bốn người đi ngang qua nhà thờ. Cả nhóm đến tòa nhà căn hộ, bước lên bậc thềm. Trong căn hộ ngay cổng, nơi bà Bortz ở, có tiếng nước chảy và chén dĩa kêu leng keng trong bồn rửa.
- Đội ơn trời rằng thỉnh thoảng con mụ kia vẫn phải ăn uống - Prentice nói - nếu không ta sẽ không có được giây phút riêng tư nào.
Peter cười.
- Bà ấy có mặt trên từng cây số.
- Một mụ nhiều chuyện bẩm sinh - Prentice nói - mụ hay hỏi những câu soi mói vô duyên nhất. Thậm chí mụ còn dám lục thùng rác. Tôi từng bắt gặp mụ làm thế nhiều lần. Mà nếu không nhìn thấy thì tôi cũng đoán ra rằng mụ làm việc này. Chứ làm sao mụ biết được rằng cô Gwen Chalmers ăn đồ đông lạnh vào buổi tối hoặc biết rằng lũ mèo đi lạc của ông Hassel tiêu thụ hơn bốn chục lon đồ ăn trong một tuần.
Ba Thám Tử Trẻ đi theo ông Prentice đến căn hộ, ông mở khóa cửa ra.
- Bác đừng chạm vào bất cứ thứ gì - Hannibal căn dặn .
Thám tử trường lấy kính lúp nhỏ ra khỏi túi rồi bước vào phòng làm việc, nhìn kỹ các ngăn kéo bàn viết.
- À há! - Hannibal kêu lên.
Fenton Prentice bước nhanh vào theo.
- Có kẻ đã mở ngăn kéo này từ khi ta đi sáng nay! - Jones báo cáo - Một kẻ có bàn tay người bình thường. Thuốc bôi bị mất đi.
Bob vào nhà bếp, lấy khăn giấy. Hannibal lau sạch tay cầm ngăn kéo.
- Cháu mở ngăn kéo ra được không ạ? - Hannibal hỏi ông Prentice.
- Dĩ nhiên.
Hannibal kéo ngăn kéo trên cùng ra.
- Có mất gì không ạ?
- Không bao giờ mất gì cả - Prentice nói - nhưng có kẻ xem hoá đơn điện thoại. Nó nằm ở cuối ngăn sáng nay.
- Kẻ di chuyển hoá đơn đã làm bẩn phong bì. Chắc hắn phải bị dính một lượng thuốc bôi rất nhiều trên tay - Hannibal hài lòng nhận xét.
Hannibal bước qua phòng khách ra cửa. Thám tử trưởng cúi xuống nhìn kỹ tay cầm.
- Cháu không hề bôi thuốc trên tay cầm này - Hannibal nhắc - nhưng bây giờ lại có vết bẩn trên đó.
- Vậy bây giờ ta biết kẻ rình rập đã ra đi như thế nào - Bob nói, mở cửa và đi ra.
- Rồi cài chốt phía sau - Hannibal nói.
Hannibal mở cửa ra, xem xét chốt cài bên ngoài. Có vết dính thuốc bôi.
- Đúng - Hannibal nói - Có kẻ có chìa khóa.
- Không thể có chuyện đó được! - Fenton Prentice thốt lên - Đây là một ổ khóa đặc biệt do tôi đặt làm. Không thể có ai có chìa khóa được!
- Có kẻ có chìa khóa - Hannibal lập lại.
Cửa lại được đóng, ba thám tử và ông Prentice tiếp tục khám xét căn hộ. Có nhiều vết bẩn hơn trên mép gương trong nhà tắm.
- Kẻ xâm nhập đã xem tủ thuốc của bác - Hannibal nói với ông Prentice.
Ông Prentice kêu lên một tiếng tức giận.
- Thôi, ít nhất ta cũng có tiến bộ - Hannibal nói.
- Thế à? - Prentice hỏi.
- Chắc chắn rồi - giọng Hannibal rất tự tin - ta biết rằng con ma ám nhà bác không thể mở tủ mà không bị dính thuốc vào tay. Sáng nay hắn ra khỏi nơi này rất bình thường, bằng cách mở cửa căn hộ. Ta sẽ ra ngoài sân quan sát, và ta sẽ biết kẻ đó là ai.
- Lỡ không phải người sống ở đây? - Peter hỏi.
- Chắc chắn phải là người sống ở đây - Hannibal nói - một người đã nhìn thấy ta ra đi sáng nay.
Ba thám tử ra ngoài sân, ngồi xuống ghế cạnh hồ bơi, rồi chờ.
- Hồ bơi này đẹp quá - Peter nhận xét.
Bob thọc tay xuống nước rồi báo rằng nước hồ có sưởi ấm.
* * *
Tiếng chân bước vang lên trên các bậc thềm lót đan, cổng trước mở ra, một chú mèo xám chạy lon ton vào sân, đi theo sau là một người đàn ông tóc màu hơi hung đỏ mặc áo thun trắng dài tay và áo khoác màu vàng sáng. Ông nhìn ba thám tử trẻ, không tỏ ra quan tâm gì, khi băng qua sân đến một cánh cửa phía sau. Con mèo chạy theo ông, nhưng bị bỏ lại ở ngoài khi ông vào căn hộ. Vài giây sau, ông trở ra với một dĩa thức ăn, bỏ xuống nền đất lát đan. Ông ngồi xổm xuống, trong khi con mèo ngốn nghiến ăn.
- Hassel - Bob nói khẽ - ông ấy đang đi ra khi bọn mình đến tối hôm qua.
- Chắc là ông ấy tìm được một con mèo lạc mới - Peter khẳng định - một chú mèo không biết rằng giờ ăn tối là năm giờ chiều.
Con mèo ăn xong, rồi bỏ đi. Hassel cầm dĩa thức ăn trở vào nhà.
Lại có tiếng chân bước ở cầu thang bên ngoài, cổng lại mở ra. Người đàn ông trung niên khoẻ mạnh tên Murphy bước vào, ông cầm trên tay một điếu thuốc đang cháy. Ông gật đầu chào ba thám tử, mỉm cười, rồi đi về căn hộ ngay bên cạnh căn hộ của Hassel. Cửa nhà mở ra, một cậu thiếu niên mười sáu mười bảay tuổi xuất hiện đứng ngay ngưỡng cửa.
- Cậu John à, cậu có thể sống mười giây mà không hút thuốc không? - Cậu bé hỏi.
- Harley ơi, cháu đừng kiếm chuyện với cậu. Hôm nay cậu làm việc rất mệt. Gạt tàn của cậu đâu rồi?
- Cháu rửa rồi để bên hồ. Cả nhà hôi khói thuốc quá.
Murphy quay lui, tiến đến một cái bàn gần ba thám tử. Ông thả mình ngồi xuống một cái ghế, gạt ít tàn thuốc vào một cái gạt tàn to tướng hình cái tô để trên bàn, rồi tiếp tục hút.
- Hy vọng các cậu không làm khổ ông bà già ở nhà như thế này - ông nói với ba thám tử.
- Ba mẹ cháu không hút thuốc - Peter nói.
Murphy càu nhàu.
- Có lẽ tôi cũng không nên hút - ông thừa nhận - nhưng ít nhất tôi rất cẩn thận. Tôi có một cái gạt tàn y như thế ở trong văn phòng. Cho dù có quên một điếu thuốc và để cháy, thì nó cũng không thể rơi ra ngoài.
Khi Murphy đi rồi, Peter nhìn qua hồ bơi vào căn hộ của Sonny Elmquist.
- Không biết Elmquist có ở nhà không - Peter nói - rèm cửa kéo kín. Nếu ta thử bấm chuông...
- Khoan đã! - Hannibal Jones ngồi thẳng lưng lên và nói.
Bà Bortz đã bước ra sân. Bà đang dùng miếng giẻ chùi hai tay.
- Trẻ con không được phép vào khu vực hồ bơi mà không có người lớn đi cùng - bà mắng.
Hannibal không thèm trả lời. Cậu đứng dậy, đi thẳng đến gần bà .
- Thưa bà Bortz, cháu có thể xem tay bà không ạ?
- Cái gì?
- Tay của bà, thưa bà Bortz! - Hannibal đã lớn tiếng hơn.
Một cánh cửa phía trên mở ra, ông Prentice bước ra ban-công.
- Tay bà bị những vết màu đen! - Hannibal nói.
Fenton Prentice nhìn xuống.
- Sao... sao, ừ thì có - bà Bortz nói - có lẽ tôi bị dính cái gì đó trong bếp.
- Bà đã vào nhà của bác Prentice - Hannibal nghiêm khắc nói - bà đã mở tủ bàn bác ấy rồi xem thư từ bác ấy, và thậm chí bà còn mở tủ thuốc của bác ấy. Bà chính là kẻ rình rập bác ấy! a
Danh sách chương