Tháng 10, tháng 11/2006 (Henry 43)
HENRY: Tôi mơ thấy mình đang ở Newberry, đang tổ chức Show’N Tell cho các sinh viên cao học của Cao đẳng Columbia. Tôi đang chỉ cho họ xem cổ tịch – các cuốn sách đầu tiên được in, rồi các mẩu tích của Gutenberg, Game and Play of Chess của Caxton, Eusebius của Jensen. Buổi giới thiệu diễn ra rất suôn sẻ, họ hỏi những câu hỏi rất thú vị. Tôi lục lọi trong xe đẩy để tìm cuốn sách đặc biệt tôi vừa tìm được trong thư viện, một cuốn sách mà tôi đã không biết chúng tôi có. Nó được bọc trong một chiếc hộp nặng nề màu đỏ không tiêu đề, chỉ có số hiệu CASE WING fZW 983.D 453, dán tem vàng có đóng dấu của thư viện Newberry. Tôi đặt chiếc hộp lên bàn và trải miếng lót ra. Tôi mở hộp, bên trong là đôi chân của tôi, hồng hào và khoẻ khoắn. Chúng nặng đến bất ngờ. Khi tôi đặt chúng lên miếng lót, những ngón chân ngoe nguẩy như muốn nói những lời chào, để nói với tôi rằng chúng vẫn có thể làm vậy. Tôi bắt đầu thuyết trình về chúng, giải thích sự liên quan giữa đôi chân của tôi với nghệ thuật in ấn Venice thế kỉ XV. Các cô cậu sinh viên chăm chú ghi chép lại. Một người trong số họ, cô gái tóc vàng xinh xắn trong chiếc áo hai dây điểm xuyết những vật trang trí sáng loá, chỉ vào đôi chân của tôi và nói, “Nhìn kìa, chúng trắng ởn!” Đúng vậy, lớp da đã chuyển sang màu trắng chết chóc, đôi chân đã không còn sự sống và đang bắt đầu phân huỷ. Tôi buồn bã nhắc mình rằng việc đầu tiên phải làm vào sáng mai là gửi chúng đến bộ phận bảo tồn.
Trong giấc mơ, tôi đang chạy. Mọi việc đều yên ổn và tốt đẹp. Tôi chạy ven hồ, từ bãi biển đường Cây sồi hướng về phía Bắc. Tôi thấy trái tim mình đập hối hả, thấy phổi mình nâng lên rồi hạ xuống nhịp nhàng. Tôi đang di chuyển đều đặn. Thật nhẹ nhõm làm sao. Tôi đã sợ mình sẽ không bao giờ có thể chạy được nữa, thế mà giờ đây tôi đang phóng như bay. Thật tuyệt.
Nhưng rồi chuyện bắt đầu tệ hại. Từng phần của cơ thể tôi lần lượt rụng rời. Đầu tiên là tay trái. Tôi dừng lại và nhặt nó lên, phủi sạch cát, rồi lại gắn vào người, nhưng nó không thể dính chặt, nó tiếp tục rụng ra chỉ sau nửa dặm. Tôi đành kẹp nó vào nách bằng tay còn lại, tự nhủ có lẽ khi về nhà, tôi có thể gắn nó chặt hơn. Nhưng rồi đến lượt tay còn lại rụng ra, và tôi chẳng còn tay nào để nhặt đôi tay tôi đã mất. Nên tôi tiếp tục chạy. Không quá tệ; nó không hề đau. Liền sau đó tôi nhận thấy của quý của mình đã tuột ra và rơi vào ống quần bên trái. Nó cứ nẩy quanh khó chịu, rồi mắc kẹt ở gấu quần bằng chun. Tôi chẳng thể làm được gì, nên tôi lờ nó đi. Rồi tôi lại cảm thấy hai bàn chân của mình đang rạn nứt trong đôi giày bên dưới, chúng rụng khỏi mắt cá khiến tôi ngã dập mặt xuống đường. Tôi biết rằng nếu tôi cứ nằm ở đây, tôi sẽ bị những người đang chạy khác dẫm đạp lên mình, nên tôi bắt đầu lăn lộn. Tôi lăn và lăn cho đến khi ra tới mặt nước biển, và những con sóng cuốn tôi ra khơi, bên dưới đại dương. Và tôi tỉnh giấc, thở hổn hển.
Tôi mơ thấy mình đang diễn ba-lê. Tôi là vũ công nữ chính. Tôi đứng trong phòng thay đồ và bị Barbara, chuyên viên phục trang của mẹ tôi, quấn lên người bộ váy nỉ bó sát màu hồng. Barbara là một người cứng cỏi, nên ngay cả khi chân tôi đang đau phát điên, tôi cũng không dám mở miệng phàn nàn trong lúc bà ân cần ấn hai gót chân của tôi vào trong đôi giày múa bằng xa-tanh màu hồng dài ngoằng. Xong xuôi, tôi loạng choạng đứng dậy và rên rỉ. “Đừng có ẻo lả như vậy” Barbara nói, nhưng rồi bà dịu lại và tiêm cho tôi một liều moóc-phin. Chú Ish xuất hiện ở ngưỡng cửa phòng thay đồ rồi chúng tôi vội vã đi qua những dãy hành lang bất tận phía sau sân khấu. Tôi biết chân của mình đang đau mặc dù tôi không thể nhìn thấy hay cảm nhận được chúng. Chúng tôi hối hả đi đến sàn diễn, và đột nhiên, khi đã đến bên cánh gà, nhìn vào sân khấu, tôi nhận ra đây là vở kịch Kẹp Hạt dẻ và tôi sắm vai bà tiên. Chẳng hiểu sao nó khiến tôi khó chịu. Đây không phải điều mà tôi trông đợi. Nhưng có ai đó khẽ đẩy tôi, và tôi lảo đảo tiến ra sân khấu. Tôi nhảy. Mắt tôi như đui chột giữa ánh đèn sân khầu, tôi nhảy mà không cần nghĩ ngợi, không cần biết đến vũ điệu, trong cơn đau mãnh liệt. Cuối cùng tôi ngã sõng soài, thút thít khóc, và khán giả đứng dậy, vỗ tay khen ngợi.
Thứ Sáu, 3/9/2006 (Clare 35, Henry 43)
CLARE: Henry giơ củ hành lên và nhìn tôi vẻ nghiêm trọng. “Đây là củ hành.”
Tôi gật đầu. “Phải, em đã được đọc về chúng.”
Anh ấy nhướn một bên chân mày. “Rất tốt. Giờ thì nghe rõ nhé, để lột vỏ hành, em lấy một con dao sắc, cầm nghiêng củ hành đã nhắc đến ở trên thớt, và bắt đầu cắt hai bên đầu, như thế này. Rồi em có thể bóc vỏ, như thế này. Được chứ? Giờ thì bắt đầu thái. Nếu em định làm hành tây tẩm bột chiên thì thái từng lát một, nhưng nếu em muốn nấu súp hay sốt mì Ý, thì em thái khúc, như thế này.”
Henry đã quyết định sẽ dạy tôi nấu ăn. Tất cả bàn nấu và tủ bếp đều quá cao so với chiếc xe lăn của anh ấy, nên chúng tôi ngồi ở bàn ăn, vây quanh bởi chén bát, dao đĩa và hộp đựng sốt cà chua. Henry đẩy thớt và dao về phía tôi. Tôi đứng dậy, lóng ngón thái hành tây. Henry kiên nhẫn theo dõi. “Được rồi, tốt lắm. Giờ đến lượt ớt xanh. Em cắt quanh chỗ này, gọt bỏ cuống.”
Chúng tôi làm sốt cà chua tỏi, pesto và lasagna. Hôm sau lại làm bánh quy, bánh sô-cô-la hạnh nhân. Alba mừng rơn. “Nhiều hơn nữa đi ạ,” con bé nài nỉ. Chúng tôi chần trứng và cá hồi, tự làm pizza. Tôi phải thừa nhận rằng nấu ăn rất thú vị. Nhưng đêm đầu tiên khi phải tự nấu bữa tối một mình, tôi rất sợ. Tôi đứng trong bếp, vây quanh bởi nồi niêu xoong chảo. Món măng tây đã quá lửa, và tôi tự làm bỏng mình khi lấy cá nhám ra khỏi lò. Tôi bày mọi thứ ra đĩa và dọn lên bàn ăn, nơi Henry và Alba đang ngồi đợi sẵn, đĩa trống đặt trước mặt. Henry mỉm cười động viên. Tôi ngồi xuống. Henry nâng li sữa và nói “Chúc mừng đầu bếp mới!” Alba cụng li với anh ấy, và chúng tôi bắt đầu ăn. Tôi nhận ra chúng có vị không tồi. “Ngon lắm mẹ ạ!” Alba nói, và Henry gật đầu. “Ngon tuyệt!” Henry tán thưởng, chúng tôi nhìn nhau không rời, và tôi nghĩ, Đừng bỏ em ở lại.
G ậy ông đập lưng ông
Thứ Hai, 18/12/2006, Chủ Nhật, 2/1/1994 (Henry 43 tuổi)
HENRY: Tôi thức dậy lúc nửa đêm vì hàng ngàn con côn trùng có răng sắc nhọn như dao cạo đang cắn xé chân tôi. Trước khi tôi kịp lôi một viên Vicodin ra khỏi lọ, tôi đã ngã xuống. Tôi gập đôi người lại. Tôi đang nằm trên sàn, những không phải sàn nhà tôi, là của ai đó khác, vào một đêm khác. Tôi đang ở đâu? Cơn đau khiến mọi thứ trở nên thật mờ mịt. Căn phòng tối om. Có mùi gì đó khiến tôi nhớ, nhưng nhớ đến gì? Mùi chất tẩy rửa. Mùi mồ hôi. Mùi nước hoa, rất quen thuộc... không có lẽ? Tiếng bước chân đi lên cầu thang, tiếng người xì xầm, tiếng nhiều ổ khoá được mở, tôi có thể trốn ở đâu đây? và cánh cửa được mở ra. Tôi đang bò trên sàn thì đèn được bật lên khiến mắt tôi đau nhức. Giọng một phụ nữ thảng thốt, “Ôi Chúa ơi.” Tôi chửi thầm trong đầu, Không, điều này không thể là sự thực, và cửa phòng được đóng lại, rồi tôi nghe Ingrid nói, “Celia, chị về đi.” Celia phản đối. Trong lúc họ đứng tranh cãi phía bên kia cửa, tôi tuyệt vọng nhìn quanh nhưng không có đường nào để thoát. Đây chắc hẳn là căn hộ của Ingrid ở đường Clark nơi tôi chưa từng đặt chân đến. Tất cả đồ vật của cô ấy đang ở xung quanh, vây lấy tôi, chiếc ghế Eames, chiếc bàn cà phê bằng cẩm thạch có hình hạt đậu chất đầy những cuốn tạp chí thời trang, chiếc ghế sofa màu cam xấu xí mà chúng tôi thường... Tôi đảo mắt khắp nơi để tìm thứ gì đó mặc, nhưng mẩu vải duy nhất trong căn phòng chật chội này là chiếc áo choàng của người Hồi giáo có màu tím vàng đang vất vưởng trên ghế sofa. Tôi chộp lấy nó và khoác lên người, rồi ngồi phịch xuống ghế. Ingrid mở cửa bước vào. Cô ấy đứng im một hồi lâu và nhìn tôi, tôi nhìn lại cô ấy và tất cả những gì tôi có thể nghĩ là Ôi Ing, tại sao em lại đầy đoạ mình như vậy?
Ingrid trong trí nhớ của tôi là một thiên thần tóc vàng xinh đẹp cá tính, người tôi đã gặp tại bữa tiệc ở Jimbo trong ngày Quốc khánh; một Ingrid Carmichael đau khổ nhưng không thể gục ngã, người đã khoác lên mình một bộ áo giáp bằng tiền tài, sắc đẹp và sự rầu rĩ. Còn Ingrid đang đứng trước mặt tôi thì hốc hác, khô khan và mệt mỏi; cô ấy đứng nghiêng đầu nhìn tôi ngạc nhiên và khinh miệt. Có vẻ như chẳng ai trong chúng tôi biết phải nói với người kia điều gì. Cuối cùng cô ấy cởi áo khoác, ném nó lên ghế và ngồi xuống đầu bên kia của chiếc sofa. Cô ấy đang mặc quần da. Chúng khẽ phát ra tiếng rin rít khi cô ấy ngồi xuống.
“Chào Henry.”
“Chào Ingrid.”
“Anh đang làm gì ở đây?”
“Anh cũng không biết. Anh xin lỗi, anh chỉ... em biết đấy.” Tôi nhún vai. Chân tôi đau đến nỗi tôi chẳng còn bận tâm mình đang ở đâu.
“Trông anh thật thảm hại.”
“Anh đang rất đau đớn.”
“Thật buồn cười. Em cũng vậy.”
“Ý anh là đau đớn về thể xác.”
“Tại sao?” Tôi biết nếu tôi có tự nhiên bốc cháy trước mặt Ingrid, cô ấy cũng chẳng thèm bận tâm. Tôi kéo chiếc áo choàng lên, để lộ đôi chân cụt.
Ingrid không giật mình, cũng không kinh ngạc. Cô ấy không ngoảnh mặt đi chỗ khác. Khi cuối cùng cũng nhúc nhích, cô ấy nhìn vào mắt tôi, và tôi nhận ra rằng, trong số tất cả mọi người, chỉ có Ingrid là hiểu hoàn cảnh của tôi lúc này nhất. Đi trên hai con đường hoàn toàn khác biệt nhưng chúng tôi đã đến cùng một đích. Cô ấy đứng dậy và đi vào một căn phòng khác. Khi trở ra, cô ấy cầm theo chiếc hộp đựng đồ khâu vá nhỏ trên tay. Tôi thầm hi vọng. Và hi vọng của tôi được thoả mãn: Ingrid ngồi xuống, mở nắp hộp, và giống y như ngày xưa cũ, bên trong là một chiếc hộp khác đựng thuốc, bên cạnh những cái nệm kim và đê bao ngón tay.
“Anh muốn loại nào?”
“Loại có thuốc phiện.” Cô ấy nhấc lên một cái túi đựng đầy thuốc và đưa cho tôi; tôi nhìn thấy Ultram và lấy ra hai viên. Sau khi nhét chúng vào miệng, Ingrid lấy cho tôi một cốc nước và tôi nuốt chúng.
Ingrid đưa bàn tay có móng dài đỏ chót lên vuốt mái tóc vàng dài. “Anh từ đâu đến?”
“Tháng Mười hai, năm 2006. Hôm nay ngày bao nhiêu?”
Ingrid nhìn đồng hồ đeo tay của cô ấy. “Vừa qua mùng một tết. Giờ đã là ngày 2 tháng 1, năm 1994.”
Ôi không. Làm ơn đừng. “Có chuyện gì vậy?” Ingrid nói.
“Không có gì.” Hôm nay là ngày Ingrid tự kết thúc đời mình. Tôi có thể nói gì với cô ấy? Liệu tôi có thể ngăn cô ấy lại? Tôi có nên gọi cho ai đó? “Ing, anh chỉ muốn nói rằng...” tôi ngần ngại. Tôi có thể nói gì mà không đánh động cô ấy? Mà liệu có còn quan trọng? Khi cô ấy đã chết? Cho dù cô ấy đang ngồi ngay đây trước mặt tôi?
“Sao?”
Tôi đổ mồ hôi. “Chỉ là... hãy biết yêu chính mình. Đừng... anh biết em không được hạnh phúc...”
“Và đó là lỗi của ai?” Đôi môi tô son đỏ chót của cô ấy mím chặt. Tôi không đáp lại. Có phải là lỗi của tôi? Tôi không biết. Ingrid nhìn tôi chằm chằm như thể cô ấy trông đợi một câu trả lời từ tôi. Tôi quay mặt đi chỗ khác. Tôi nhìn vào bức tranh của Maholy Nagy trên tường đối diện. “Henry?” Ingrid nói. “Tại sao anh tàn nhẫn với em như vậy?”
Tôi nặng nhọc đưa mắt nhìn lại cô ấy. “Anh đã vậy sao? Anh không cố ý.”
Ingrid lắc đầu. “Anh đã chẳng bận tâm em sống hay chết.”
Ôi, Ingrid. “Anh có bận tâm. Anh không muốn em chết.”
“Anh đã không hề bận tâm. Anh đã bỏ rơi em, và không hề đến bệnh viện thăm em.” Ingrid nói như thể ngôn từ đang bóp cổ cô ấy.
“Gia đình em đã không cho anh đến. Mẹ em bảo anh hãy tránh xa em ra.”
“Dù là vậy, anh vẫn nên đến.”
Tôi thở dài. “Ingrid, bác sĩ của em bảo anh rằng anh không thể vào thăm em.”
“Em đã hỏi, họ bảo rằng anh không hề gọi điện một lần.”
“Anh đã gọi. Anh được bảo rằng em không muốn nói chuyện với anh, và bảo anh đừng bao giờ gọi điện cho em nữa.” Thuốc giảm đau đang bắt đầu ngấm. Cảm giác râm ran ở dưới chân đã lụi dần. Tôi thò tay xuống dưới tấm áo choàng và sờ vào bàn chân cụt bên trái, rồi bên phải.
“Em đã suýt chết và anh thì lặn mất tăm.”
“Anh đã nghĩ em không muốn nói chuyện với anh nữa. Làm sao anh biết được đó không phải là sự thật?”
“Anh đã kết hôn và không thèm gọi điện báo cho em biết, lại còn mời Celia đến lễ cưới để chọc tức em.”
Tôi bật cười. “Ingrid, Clare đã mời Celia. Họ là bạn, chính anh cũng không hiểu tại sao. Có lẽ vì sự khác biệt hoàn toàn đã tạo nên sự hấp dẫn giữa họ. Dù sao thì, việc đó hoàn toàn không phải vì em.”
Ingrid chẳng nói chẳng rằng. Cô ấy trắng nhợt dưới lớp trang điểm. Cô ấy đút tay vào túi áo choàng và lôi một gói English Ovals cùng bật lửa.
“Em hút thuốc từ bao giờ?” tôi hỏi. Ingrid ghét thuốc lá. Cô ấy chỉ thích cô-ca, thuốc kích thích, và mê những món đồ uống có tên thi vị. Cô ấy lôi một điếu thuốc ra khỏi bao bằng hai ngón tay có móng dài, rồi châm lửa. Tay cô ấy run rẩy. Ingrid rít một hơi dài, khói len lỏi thoát ra từ giữa đôi môi của cô ấy theo từng lọn cong cong.
“Cuộc sống mà không có đôi chân của anh như thế nào?” Ingrid hỏi tôi. “Mà chuyện gì đã xảy ra?”
“Hoại tử vì tê cóng. Anh đã ngất xỉu ở công viên Gran giữa tiết trời tháng Một.”
“Anh đi lại bằng cách nào?”
“Chủ yếu nhờ xe lăn.”
“Ồ, tệ nhỉ.”
“Phải,” tôi nói. “Rất tệ.” Chúng tôi ngồi trong yên lặng một hồi.
Ingrid hỏi, “Anh vẫn còn kết hôn chứ?”
“Phải.”
“Con cái gì không?”
“Anh có một cô con gái.”
“Ồ.” Ingrid tựa lưng vào ghế, rít thuốc và nhả ra một làn khói mỏng từ hai lỗ mũi. “Ước gì em đã có con.”
“Em đã không muốn có con, Ing.”
Cô ấy nhìn tôi, nhưng tôi không thể hiểu được cái nhìn đó. “Em luôn muốn có con. Nhưng em đã nghĩ anh không muốn có, nên em đã không nói gì.”
“Em vẫn có thể có con.”
Ingrid phá lên cười. “Thật sao? Em có con không, Henry? ở năm 2006, em có chồng, có nhà ở Winnetka và hai, ba đứa con không?”
“Không hẳn vậy.” Tôi đổi tư thế ngồi. Cơn đau đã biến mất nhưng cái vỏ của cơn đau còn sót lại, một khoảng trống nơi đáng lẽ cơn đau phải ngự trị nhưng thay vào đó lại là sự trông đợi cơn đau sẽ đến.
“Không hẳn vậy”, Ingrid lặp lại lời tôi. “Không hẳn đến mức nào? Như, ‘Không hẳn vậy, Ingrid ạ. Thực tế thì em là một bà cô không nhà không cửa’?”
“Em không phải một bà cô không nhà không cửa.”
“Vậy em sẽ không trở thành một bà lão vô gia cư. Được, tuyệt lắm.” Ingrid dập tắt thuốc lá và vắt chéo chân lên nhau. Tôi đã từng yêu đôi chân của Ingrid. Cô ấy đang đi đôi ủng cao gót. Chắc hẳn cô ấy và Celia vừa trở về từ một bữa tiệc. Ingrid nói, “Chúng ta đã loại trừ hai trường hợp tồi tệ nhất và tốt đẹp nhất: em không phải một mệnh phụ ở ngoại thành và không phải dân vô gia cư. Tiếp nào, Henry, hãy cho em thêm vài gợi ý.”
Tôi im lặng. Tôi không muốn chơi trò chơi này.
“Được rồi. Hãy chọn lựa từ nhiều đáp án vậy. Xem nào. A) Em là một vũ công thoát y trong một câu lạc bộ nhớp nháp ở đường Rush. B) Em phải vào tù vì sát hại Celia và xẻ thịt cô ấy đem cho Malcolm ăn. Nghe hay đấy. C) Em sống ở Rio del Sol với một nhà trung gian tài chính giàu có. Thế nào, Henry? Có lựa chọn nào nghe hợp lí với anh không?”
“Malcolm là ai?”
“Con chó Đức của Celia.”
“Anh cũng đoán vậy.”
Ingrid nghịch chiếc bật lửa của mình, cứ bật rồi lại tắt. “Còn đáp án D) Em đã chết thì sao?” Tôi nao núng. “Nghe có hấp dẫn với anh chút nào không?”
“Không. Không hề.”
“Thật sao? Em thích nó nhất.” Ingrid mỉm cười. Đó không phải một nụ cười quyến rũ. Nó giống một biểu hiện nhăn nhó, đau đớn, hơn là một nụ cười. “Em thích nó đến nỗi nó đã gợi ý cho em một việc hay ho.” Cô ấy đứng dậy và sải bước qua căn phòng, đi vào hành lang. Tôi có thể nghe thấy tiếng cô ấy mở, rồi đóng, ngăn kéo. Khi xuất hiện trở lại, cô ấy đưa một tay giấu sau lưng. Ingrid đứng trước mặt tôi và nói, “Ngạc nhiên chưa!” và chĩa súng vào tôi.
Nó không phải một khẩu súng lớn. Nó mỏng, có màu đen, và sáng bóng. Ingrid giữ nó ngang hông một cách thoải mái, như thể cô ấy đang tham dự một bữa tiệc cocktail. Tôi nhìn chằm chằm vào khẩu súng. Ingrid nói, “Em có thể bắn anh.”
“Phải, em có thể”, tôi nói.
“Rồi em sẽ bắn chính mình”, cô ấy nói.
“Điều đó cũng có thể xảy ra.”
“Nhưng có thể không?”
“Anh không biết. Ingrid. Em là người quyết định.”
“Thôi vòng vo đi, Henry. Hãy nói cho em biết”, Ingrid yêu cầu.
“Được rồi. Không. Nó không diễn ra như vây.” Tôi cố tỏ ra chắc chắn.
Ingrid cười ngạo nghễ. “Nếu em muốn nó diễn ra như vậy thì sao?”
“Ingrid, đưa khẩu súng cho anh.”
“Đến đây mà lấy nó.”
“Em sẽ bắn anh sao?” Ingird lắc đầu, mỉm cười. Tôi trèo ra khỏi ghế sofa, trèo xuống sàn nhà, và bò lại gần Ingrid, kéo lê chiếc áo choàng, chậm hơn bình thường vì thuốc giảm đau. Cô ấy lùi lại, chĩa khẩu súng về phía tôi. Tôi dừng lại.
“Đến đây nào Henry. Chó ngoan lắm. Chó trung thành lắm.” Ingrid gỡ chốt an toàn và bước lại gần tôi. Tôi căng thẳng. Cô ấy dí súng vào đầu tôi. Nhưng rồi Ingrid phá lên cười, và chĩa mũi súng vào thái dương của mình. “Thế này thì sao, Henry? Nó có diễn ra như thế này không?”
“Không.” Không!
Cô ấy nhăn nhó. “Anh chắc chứ, Henry?” Ingrid di chuyển khẩu súng xuống ngực. “Thế này thì sao? Đầu hay ngực, Henry?” Ingrid bước tới. Tôi có thể chạm vào cô ấy. Tôi có thể tóm lấy cô ấy... Ingrid đá vào ngực tôi và tôi ngã lăn ra sàn, ngước lên nhìn cô ấy. Ingrid cúi xuống và nhổ vào mặt tôi.
“Anh đã yêu em chứ?” Ingrid nhìn tôi hỏi.
“Có”, tôi trả lời.
“Nói dối”, Ingrid nói, rồi bóp cò.
Thứ Hai, 18/12/2006 (Clare 35, Henry 43)
CLARE: Tôi tỉnh giấc lúc nửa đêm và thấy Henry đã biến mất. Tôi hoảng hốt ngồi bật dậy. Các tình huống tồi tệ không ngừng diễn ra trong đầu tôi. Anh ấy có thể bị xe đâm, bị mắc kẹt trong một toà nhà bỏ hoang nào đó, giữa thời tiết băng giá... tôi nghe có tiếng động, có ai đó đang khóc. Có lẽ là Alba, có lẽ Henry đã đi dỗ dành con bé. Tôi bước xuống giường và đi đến phòng của Alba, nhưng con bé vẫn đang cuộn mình ngủ bên cạnh Teddy, chăn của con bé đã bị đạp xuống giường. Tôi đi theo tiếng động qua hành lang và nhìn thấy Henry đang ngồi trên sàn phòng khách, vùi mặt vào hai bàn tay mà khóc.
Tôi quỳ xuống bên cạnh anh ấy. “Có chuyện gì vây?” tôi hỏi.
Henry ngẩng mặt lên, tôi có thể nhìn thấy những giọt nước mắt đang chảy trên má của anh ấy sáng lên dưới ánh đèn đường hắt vào qua cửa sổ. “Ingrid đã chết rồi,” Henry nói.
Tôi đưa tay ôm lấy anh ấy. “Ingrid đã chết từ lâu rồi, Henry.” Tôi nói khẽ.
Henry lắc đầu. “Hàng năm, hàng phút... có gì khác nhau?” anh ấy nói. Chúng tôi ngồi trên sàn nhà trong im lặng. Cuối cùng, Henry nói, “Em nghĩ trời đã sáng chưa?”
“Có lẽ.” Ngoài trời vẫn một màu u tối. Chẳng có lấy một tiếng chim.
“Hãy đứng dậy thôi”, anh ấy nói. Tôi kéo xe lăn đến, giúp anh ấy ngồi lên và đẩy vào trong bếp. Tôi đưa áo choàng tắm cho Henry và anh ấy khó nhọc khoác lên người. Anh ấy ngồi bên bàn ăn, nhìn đăm đăm ngoài cửa sổ, vào khu vườn đang chìm trong tuyết trắng phía sau nhà. Xa xa có tiếng xe ủi tuyết đang cạo đường. Tôi bật điện, đổ cà phê vào phin lọc, đổ nước rồi bật máy pha. Tôi lấy ra hai chiếc cốc. Tôi mở tủ lạnh, nhưng khi tôi hỏi Henry muốn ăn gì, anh ấy chỉ lắc đầu. Tôi ngồi xuống đối diện Henry và anh ấy nhìn tôi. Mắt anh ấy đỏ hoe, tóc rối bù. Hai bàn tay anh ấy khẳng khiu, gương mặt trống rỗng.
“Đó là lỗi của anh”, Henry nói. “Nếu anh không ở đó...”
“Liệu anh có thể ngăn cản cô ấy?” Tôi hỏi.
“Không, anh đã cố.”
“Vậy thì đừng đổ lỗi cho chính mình nữa.”
Máy pha cà phê kêu lên những tiếng nổ nho nhỏ. Henry đưa tay xoa mặt. Anh ấy nói, “Anh đã luôn tự hỏi tại sao cô ấy không để lại đôi dòng nhắn nhủ gì.” Tôi đang định hỏi ý anh ấy là gì thì nhận ra Alba đang đứng ở cửa phòng bếp. Con bé mặc bộ áo ngủ màu hồng, đi dép lê con chuột màu xanh. Alba nheo mắt và ngáp dài trong ánh sáng chói loà của căn bếp.
“Chào bé con”, Henry nói. Alba bước lại gần và ngồi lên đùi anh ấy. “Chào buổi sáng”, Alba đáp.
“Trời chưa sáng đâu”, tôi bảo con bé. “Vẫn đang là ban đêm.”
“Tại sao bố mẹ thức giấc lúc nửa đêm ạ?” Alba ngửi ngửi. “Bố mẹ đang pha cà phê, vậy là buổi sáng rồi.”
“Ồ, là cái định nghĩa cà phê bằng buổi sáng”, Henry nói. “Có lỗ hổng trong suy luận của con rồi, con gái.”
“Sao cơ ạ?” Alba hỏi lại. Con bé ghét bị sai trong mọi vấn đề, dù là nhỏ.
“Con đang đưa ra kết luận dựa vào dữ liệu không chuẩn xác; con quên mất rằng bố mẹ nghiện cà phê, và chúng ta ra khỏi giường lúc nửa đêm chỉ để uống THÊM nhiều cà phê hơn nữa.” Anh ấy gầm gừ lên giả làm một con quỷ, hoặc có lẽ một người nghiện cà phê.
“Con muốn uống cà phê”, Alba nói. “Con cũng nghiện cà phê.” Con bé gầm gừ lại với Henry. Anh ấy nhấc con bé lên và đặt nó đứng dậy. Alba chạy vòng qua bàn về phía tôi rồi con bé ôm chầm lấy tôi và hét “GỪ!” vào tai tôi.
Tôi đứng dậy và bế con bé lên. Nó đã lớn bổng. “Gừ thì cũng đi ngủ, nhé.” Tôi bế con bé vào phòng và thả nó xuống giường, nó cười ngặt nghẽo. Đồng hồ điểm 4:16 phút. “Thấy chưa?” Tôi chỉ cho con bé. “Còn quá sớm để con có thể ra khỏi giường.” Sau một hồi cự nự, Alba cũng chui vào chăn đi ngủ, và tôi quay trở lại nhà bếp. Henry đã rót cho chúng tôi mỗi người một cốc cà phê. Tôi ngồi xuống. Trong này thật lạnh.
“Clare.”
“Vâng?”
“Sau khi anh chết...” Henry ngừng nói và nhìn đi chỗ khác, anh ấy thở sâu rồi tiếp tục. “Anh đã thu xếp mọi việc, giấy tờ, di chúc, và thư gửi mọi người, những lời nhắn nhủ tới Alba, tất cả đều nằm trong ngăn bàn của anh.” Tôi không thể tìm được lời đáp lại. Henry nhìn tôi.
“Đó là khi nào?” tôi hỏi. Henry chỉ lắc đầu. “Vài tháng? Vài tuần? Hay vài ngày nữa?”
“Anh không biết, Clare ạ.” Anh ấy biết, tôi biết anh ấy biết.
“Anh đã thấy cáo phó của mình phải không?” tôi hỏi. Henry ngần ngại rồi gật đầu. Tôi mở miệng định hỏi thêm, nhưng rồi tôi sợ.
Hàng gi ờ, hàng ngày
Thứ Sáu, 24/12/2006 (Henry 43, clare 35)
HENRY: Tôi dậy sớm, rất sớm, khi căn phòng vẫn còn chìm trong ánh sáng xanh trước lúc rạng đông. Tôi nằm yên trên giường ngắm nhìn Clare ngủ, lắng nghe tiếng thở sâu của cô ấy, nghe tiếng giao thông rải rác trên đại lộ Lincoln, nghe tiếng quạ í ới gọi nhau và tiếng lò sưởi phụt tắt. Chân tôi đau nhức nhối. Tôi nhổm người dậy để tìm lọ Vicodin trong ngăn bàn đặt đầu giường. Tôi lấy ra hai viên, tống chúng xuống cổ họng bằng một ngụm cô-ca.
Tôi thả mình trở lại bên dưới lớp chăn. Clare đang say sưa ngủ, mặt úp xuống gối, tay ôm lấy đầu. Tóc cô ấy giấu bên dưới chăn, Clare trông nhỏ hơn khi không có mái tóc đỏ của mình. Tư thế ngủ hồn nhiên của cô ấy khiến tôi nhớ lại khi cô ấy còn nhỏ. Rồi tôi gắng nhớ lại liệu tôi đã từng thấy Clare ngủ khi còn nhỏ hay chưa, và nhận ra tôi chưa từng. Tôi đã nhầm với Alba. Ánh sáng đang đổi sắc. Clare cựa mình, quay người về phía tôi. Tôi ngắm kĩ khuôn mặt của cô ấy. Khoé mắt và miệng của cô ấy đã điểm xuyết những nếp nhăn, điểm khởi đầu cho khuôn mặt của Clare ở tuổi trung niên. Tôi sẽ không bao giờ được nhìn khuôn mặt trung niên đó, tôi cay đắng nuối tiếc, khuôn mặt sẽ đi cùng Clare trong quãng đường sắp tới mà không có tôi, khuôn mặt sẽ không còn được tôi hôn lên, khuôn mặt thuộc về một thế giới mà tôi sẽ không được biết, nơi tôi chỉ còn tồn tại trong kí ức của Clare, một mối liên kết đến quá khứ bất định.
Hôm nay là ngày giỗ thứ 37 của mẹ tôi. Tôi đã không ngừng nghĩ đến bà, mong mỏi được gặp lại bà trong suốt 37 năm đó, và bố tôi đã không một giây thôi nghĩ đến bà. Nếu sự mong nhớ tha thiết có thể đưa người chết sống lại, bà sẽ là Eurydice[1] của chúng tôi, bà sẽ hồi sinh như Lady Lazarus, không ngừng trốn thoát khỏi tay tử thần, để an ủi chúng tôi. Nhưng tất cả những lời kêu than của chúng tôi cũng không thể mang lại thêm một giây cho cuộc sống của bà, không thể khiến trái tim bà đập lại thêm một nhịp, khiến lồng ngực bà phập phồng một lần thở. Điều duy nhất sự mong mỏi của tôi có thể làm là đưa tôi đến gặp bà. Còn Clare sẽ có được gì sau khi tôi chết? Làm sao tôi có thể bỏ cô ấy ở lại?
[1] Eurydice: Con gái của thần Apollo, vợ của Orpheus, người đã xuống địa ngục tìm cách tái sinh Eurydice.
Tôi nghe tiếng Alba nói chuyện trong phòng con bé. “Này”, Alba nói. “Này, Teddy? Suỵt, hãy đi ngủ đi.” Im lặng. “Bố ơi?” Tôi nhìn sang Clare xem cô ấy có bị đánh thức bởi tiếng gọi của Alba. Cô ấy vẫn ngủ say. “Bố ơi!” Tôi rón rén quay người, khẽ chui ra khỏi chăn và trườn xuống sàn. Tôi bò ra ngoài, qua hành lang và vào phòng của Alba. Con bé cười khúc khích khi nhìn thấy tôi. Tôi gầm gừ, và Alba vỗ vào đầu tôi như thể tôi là một con thú. Con bé đang ngồi trên giường, giữa đống thú nhồi bông của nó. “Nhích ra nào, Cô bé Quàng khăn đỏ.” Alba ngồi dịch vào trong. Tôi bám lấy giường rồi leo lên. Con bé cuống cuồng thu dọn những con thú nhồi bông xung quanh tôi. Tôi đưa tay ôm lấy con bé rồi tựa người vào thành, con bé giơ Teddy Xanh ra trước mặt tôi. “Cậu ấy muốn ăn kẹo dẻo.”
“Vẫn còn quá sớm để ăn kẹo dẻo, Teddy Xanh ạ. Ăn trứng chần và bánh mì nướng nhé?”
Alba nhăn mặt. Con bé nhăn cả miệng, mũi và lông mày lại. “Teddy không thích trứng đâu”, con bé nói.
“Suỵt, khẽ nào. Mẹ vẫn còn đang ngủ.”
“Dạ”, Alba thì thầm lớn tiếng. “Teddy muốn ăn Jelly-O cơ.” Tôi nghe tiếng Clare rên rỉ và bắt đầu thức dậy ở phòng bên.
“Cháo yến mạch vậy nhé?” Tôi thương thuyết. Alba cân nhắc rồi bảo, “Với đường đen được không ạ?”
“Được rồi.”
“Con có muốn tự làm không?” Tôi trườn khỏi giường.
“Có ạ. Cho con cưỡi bố nhé?”
Tôi ngần ngại. Chân tôi đang đau khủng khiếp, và Alba hơi quá lớn để làm việc này mà không khiến tôi thêm đau, nhưng tôi không thể khước từ con bé bất cứ điều gì vào lúc này. “Dĩ nhiên rồi, nhảy lên nào.” Tôi khuỵu cả hai tay, hai chân xuống sàn. Alba trèo lên lưng tôi, và chúng tôi thong dong bò vào trong bếp. Clare đang ngái ngủ đứng bên bồn rửa, nhìn cà phê nhỏ từng giọt vào bình. Tôi trườn về phía cô ấy, rúc vào đầu gối của cô ấy. Clare nắm lấy tay Alba và nhấc bổng con bé lên. Alba khúc khích cười không thôi. Tôi bò về ghế của mình. Clare mỉm cười và nói, “Bữa sáng sẽ có gì vậy, các đầu bếp?”
“Jell-O!” Alba hét inh tai.
“Hừm, Jell-O gì? Jell-O ngô?”
“Khôôông!”
“Jell-O thịt hun khói?”
“Eo ơi!” Alba ôm chầm lấy Clare, khẽ giật tóc cô ấy.
“Đau quá, đừng làm vậy, bé con. Thì Jell-O yến mạch vậy.”
“Cháo yến mạch ạ!”
“Jell-O cháo yến mạch, ngon nhỉ.” Clare lôi ra túi đường đen, sữa và hộp yến mạch. Cô ấy đặt chúng lên mặt bàn và nhìn tôi dò hỏi. “Còn anh? Jell-O trứng tráng chứ?”
“Nếu em nấu thì anh sẽ ăn.” Tôi kinh ngạc trước sự lanh lẹ của Clare, di chuyển quanh bếp như thể cô ấy là Betty Crocker, như thể cô ấy đã làm việc này hàng năm trời. Cô ấy sẽ ổn khi không có tôi, tôi tự nhủ trong lúc nhìn cô ấy, nhưng tôi biết rằng cô ấy sẽ không hề ổn. Tôi ngắm Alba trộn nước và bột lúa mạch vào với nhau, và tôi nghĩ đến Alba khi lên mười, mười lăm, rồi hai mươi tuổi. Quãng thời gian tôi ở bên họ là chưa đủ. Tôi chưa muốn đi, tôi muốn được ở đây, muốn được nhìn thấy họ và ôm họ trong lòng, tôi muốn sống...
“Bố đang khóc kìa mẹ ơi”, Alba thì thầm vào tai Clare.
“Vì bố phải ăn đồ mẹ nấu đấy”, Clare bảo con bé rồi nháy mắt với tôi, và tôi phải cười.
Đêm giao thừa, hai
Chủ Nhật, 31/12/2006 (Clare 35, Henry 43)
7 giờ 25 phút tối
CLARE: Chúng tôi sẽ tổ chức tiệc giao thừa. Lúc đầu Henry tỏ ra miễn cưỡng, nhưng giờ thì anh ấy hoàn toàn thích thú. Anh ấy đang ngồi bên cạnh bàn ăn và hướng dẫn cách tỉa hoa từ cà rốt và củ cải cho Alba. Tôi phải thừa nhận rằng tôi đã không cho anh ấy lựa chọn khác, tôi đề cập đến chuyện mở tiệc trước mặt Alba và con bé rất hứng khởi nên anh ấy chẳng thể nào khiến con bé thất vọng.
“Sẽ rất vui mà, Henry. Em sẽ mời tất cả mọi người.”
“Tất cả?” anh ấy hỏi lại, miệng mỉm cười.
“Tất cả những người chúng ta yêu mến”, tôi đính chính. Và thế là trong suốt những ngày qua tôi đã dọn dẹp nhà cửa, còn Henry và Alba nướng bánh (mặc dù mỗi mẻ họ nướng đều chui vào miệng con bé một nửa nếu chúng tôi không canh chừng). Hôm qua Charisse và tôi đã đi siêu thị để mua đồ ăn nhẹ, đủ loại rau củ, bia, rượu, champagne, món khai vị đủ màu sắc, giấy ăn với dòng chữ Chúc mừng năm mới được in vàng rực, và đĩa giấy cùng màu... Khắp nhà giờ đây có mùi như thịt viên chiên và cây thông Noel đang quắt queo nhanh chóng trong phòng khách.
Alicia đang rửa li uống rượu cho chúng tôi.
Henry ngẩng mặt lên nhìn tôi và nói, “Clare, sắp đến giờ rồi đấy. Em đi tắm đi.” Tôi liếc nhìn đồng hồ và nhận ra đúng vậy, đã đến giờ.
Tôi nhảy vào bồn tắm, gội đầu, sấy tóc, mặc quần áo lót, đi tất, xỏ vào chiếc đầm dạ hội bằng lụa màu đen, đi giày cao gót và xức một chút nước hoa, tô son, soi gương lần cuối rồi quay trở lại nhà bếp nơi Alba vẫn tinh tươm trong chiếc váy nhung màu xanh của con bé, còn Henry vẫn đang mặc chiếc áo sơ mi vải dệt màu đỏ thủng lỗ chỗ và chiếc quần jeans rách màu xanh.
“Anh không định thay đồ sao?”
“Ồ, phải rồi. Giúp anh chứ?” Tôi đẩy xe đưa anh ấy vào phòng ngủ.
“Anh muốn mặc gì?” Tôi lục ngăn tủ để tìm quần lót và tất.
“Gì cũng được. Tuỳ em chọn.” Henry đưa tay đóng cửa phòng ngủ. “Lại đây nào.”
Tôi ngừng lục lọi và nhìn Henry. Anh ấy giữ thắng xe lăn và trèo lên giường.
“Chúng ta sẽ muộn mất”, tôi nói.
“Đúng thế, vậy nên hãy nhanh làm việc chính thôi.” Giọng anh ấy thủ thỉ và đầy thuyết phục. Tôi chốt cửa phòng.
“Em vừa mới thay đồ...”
“Suỵt, thôi nào.” Anh ấy đưa tay về phía tôi, lòng tôi chùng lại, rồi tôi ngồi xuống bên cạnh anh ấy, và ý nghĩ một lần cuối vụt lên trong đầu tôi.
(8 giờ 5 phút tối)
HENRY: Chuông cửa kêu lên đúng lúc tôi đang thắt cà vạt. Clare băn khoăn hỏi, “Trông em ổn chứ?” Cô ấy trông rất đẹp, hồng hào và đáng yêu, và tôi nói với cô ấy như vậy. Chúng tôi ra khỏi phòng ngủ trong lúc Alba chạy đi mở cửa và hét toáng lên “Chào ông nội! Chào bà Kim!” Bố tôi dậm mạnh đôi ủng đang bám đầy tuyết xuống sàn rồi cúi người ôm lấy con bé. Clare hôn lên má ông. Bố tôi đưa áo khoác của mình cho Clare như để tưởng thưởng. Alba bám dính lấy Kimy và dẫn bà đi xem cây Noel trước cả khi bà kịp cất áo choàng.
“Chào con, Henry”, bố tôi mỉm cười nói, cúi người về phía tôi và bất chợt tôi nhận ra: trong buổi tối hôm nay, cuộc đời tôi sẽ tái hiện ra trước mắt. Chúng tôi đã mời tất cả những người quan trọng trong cuộc đời mình: bố, Kimy, Alicia, Gomez, Charisse, Philip, Mark, Sharon và con cái họ, Roberto, Catherine, Isabelle, Matt, Amelia, bạn trong lĩnh vực nghệ thuật của Clare, bạn đại học của tôi, bố mẹ của bạn bè Alba, môi giới của Clare, và cả Celia Attley – sau một hồi nài nỉ của Clare. Những người vắng mặt là những người không thể đến vì lí do bất khả kháng: mẹ tôi, Lucile, Ingrid... Chúa ơi, đừng mang tôi đi.
(8 giờ 20 phút tối)
CLARE: Gomez và Charisse xuất hiện như những phi công cảm tử Nhật. “Này, Nhóc thủ thư lười biếng, cậu không bao giờ dọn tuyết trên vỉa hè nhà mình hả?”
Henry vỗ tay vào trán, đáp, “Tôi biết ngay là đã quên việc gì đó mà.” Gomez ném chiếc túi đựng đầy đĩa CD vào đùi Henry rồi bỏ đi dọn vỉa hè. Charisse cười rộ và đi theo tôi vào trong bếp. Cậu ấy lôi ra một chai vodka Nga to tướng và nhét nó vào trong tủ lạnh. Chúng tôi nghe thấy tiếng Gomez đang ông ổng hát “Let it snow” trong lúc anh ấy dọn tuyết dọc căn nhà.
“Lũ trẻ đâu hết rồi?” tôi hỏi Charisse.
“Bọn tớ gửi chúng ở nhà bà ngoại. Tớ nghĩ chúng sẽ thích ở bên bà ngoại trong đêm giao thừa hơn. Chưa kể, cậu biết đấy, bọn tớ muốn chịu tàn tích của rượu chè trong riêng tư.” Tôi chưa bao giờ nghĩ nhiều đến việc đó; tôi chưa từng say kể từ khi Alba tra đời. Alba chạy ùa vào trong bếp và ôm chầm lấy Charisse. “Xin chào, cô bé! Cô chú có quà Giáng sinh cho cháu đây!”
Alba nhìn tôi dò xét. “Mở nó ra đi.” Đó là một bộ đồ cắt móng tay nhỏ xíu, đi kèm với lọ sơn móng tay. Alba kêu lên sung sướng. Tôi vỗ nhẹ vào người con bé, và mở nó ra.
“Cảm ơn cô Charisse.”
“Không có gì, Alba.”
“Con đem khoe với bố đi”, tôi bảo con bé, và nó liền chạy về phía phòng khách. Tôi thò đầu vào hành lang để nhìn Alba hớn hở chìa món quà cho Henry xem, anh ấy xoè bàn tay ra cho con bé như thể đang trải qua cơn phẫu thuật rút móng. “Món quà tuyệt lắm”, tôi bảo Charisse.
Cậu ấy mỉm cười, “Đó là ước mơ hồi nhỏ của tớ. Tớ đã muốn trở thành một chuyên gia chăm sóc sắc đẹp khi lớn lên.”
Tôi cười, “Nhưng cậu không đủ khả năng để biến nó trở thành sự thật, nên thay vào đó cậu đã trở thành một nghệ sĩ.”
“Tớ đã gặp Gomez và nhận ra rằng, không ai có thể lật đổ hệ thống điều hành coi nhẹ nữ quyền của giai cấp tư bản bằng việc uốn tóc.”
“Dĩ nhiên là chúng ta cũng đã không thực sự lật đổ nó bằng việc bán các tác phẩm nghệ thuật cho nó.”
“Nói thì phải ngẫm đến mình, cô bạn thân mến. Cậu thì chỉ biết đam mê cái đẹp.”
“Thật áy náy quá.” Chúng tôi thong thả đi vào phòng ăn rồi Charisse bắt đầu chất đầy đồ ăn lên đĩa của mình. “Gần đây cậu đang làm gì?” tôi hỏi Charisse.
“Nghệ thuật virus máy tính.”
“Ồ, chẳng phải như vậy là phạm pháp sao?”
“Không hẳn, tớ chỉ thiết kế rồi vẽ chúng lên phông nền và đem đi triển lãm. Tớ không thực sự phát tán chúng.”
“Nhưng có thể sẽ có người phát tán.”
“Phải.” Charisse cười ranh mãnh. “Tớ hi vọng họ sẽ làm vậy. Gomez cứ không ngừng chế giễu, nhưng một vài trong số những bức tranh nhỏ nhoi này đủ sức gây nhiều phiền toái cho Ngân hàng Thế giới và Bill Gates cùng những kẻ khốn làm ra máy ATM.”
“Dù sao cũng chúc cậu may mắn. Khi nào triển lãm?”
“Tháng Năm. Tớ sẽ gửi thư mời cho cậu.”
“Khi nào nhận được nó, tớ sẽ biết đường để chuyển đổi tài sản của mình sang vàng khối và nhét chúng vào bình nước đóng chai.”
Charisse cười. Catheine và Alicia vừa xuất hiện, nên chúng tôi ngừng nói chuyện về sự hỗn loạn của thế giới qua nghệ thuật và chuyển sang khen ngợi đầm dạ hội của nhau.
(8 giờ 50 phút tối)
HENRY: Khắp nhà chật ních những người thân thiết và gần gũi nhất của chúng tôi, một vài trong số họ tôi đã không được gặp kể từ sau ca phẫu thuật. Leah Jacobs – người môi giới của Clare – rất lịch thiệp và tử tế, nhưng tôi khó có thể chịu được sự thương hại trong ánh mắt của cô ấy. Celia khiến tôi bất ngờ khi lại gần tôi và chìa tay ra. Tôi nhận lấy nó, và cô ấy nói, “Tôi rất tiếc khi thấy cậu như thế này.”
“Còn cô trông rất tuyệt”, tôi nói, và đó là sự thật. Tóc cô ấy vén cao, quần áo độc màu xanh lấp lánh.
Celia nói bằng giọng ngọt như bông đường của cô ấy, “Tôi thích cậu khi cậu còn là một kẻ chẳng ra gì hơn, tôi dễ dàng ghét cái thân hình mảnh khảnh trắng trẻo của cậu hơn.”
Tôi cười, “Ôi, những ngày tháng tươi đẹp.”
Celia lục trong túi xách và lôi ra một bức ảnh. “Tôi tìm thấy cái này trong đống đồ của Ingrid đã lâu. Tôi nghĩ có lẽ Clare sẽ thích nó.” Cô ấy đưa cho tôi bức ảnh. Đó là ảnh của tôi, có lẽ khoảng năm 1990. Tóc tôi để dài và tôi đang cười, cởi trần đứng trên bãi biển đường Cây Sồi. Đó là một bức ảnh đẹp. Tôi không nhớ Ingrid đã chụp nó khi nào, nhưng dù sao thì, hầu hết quãng thời gian của tôi bên Ing giờ đây chỉ còn là một khoảng trống.
“Phải, tôi cược rằng cô ấy sẽ rất thích nó. Memento mori[1].” Tôi trả lại bức ảnh cho Celia.
[1] Memeto mori: một câu thành ngữ tiếng Latin, có nghĩa “Hãy nhớ rằng ngươi sẽ chết”, không ai có thể sống mãi.
Cô ấy nhìn tôi sắc lẹm, “Cậu chưa có chết, Henry DeTamble ạ.”
“Không lâu nữa đậu, Celia.”
Celia cười. “Vậy thì nếu cậu xuống địa ngục trước tôi, nhớ giữ cho tôi một chỗ bên cạnh Ingrid.” Cô ấy quay đi tìm Clare.
(9 giờ 45 phút tối)
CLARE: Lũ trẻ đã chạy quanh không ngừng và đã ăn quá nhiều nên giờ chúng trở nên xộc xệch và buồn ngủ. Tôi gặp Colin Kendrick trong hành lang và hỏi cậu bé có muốn đi ngủ không; cậu bé long trọng nói với tôi rằng cậu bé muốn được thức cùng người lớn. Tôi xúc động trước sự lịch thiệp và vẻ đẹp của tuổi mười bốn, vẻ ngượng ngùng của cậu bé trước mặt tôi, cho dù cậu bé đã biết tôi trong suốt cuộc đời mình. Ngược lại, Alba và Nadia Kendrick không được tự chủ bằng. “Mẹ”, Alba nhõng nhẽo, “mẹ đã nói bọn con có thể thức cùng mà?”
“Phải rồi, nhưng con không muốn chợp mắt một chút sao? Mẹ sẽ đánh thức con dậy khi giao thừa đến.”
“Không chịu đâu!” Kendrick đang đứng nghe cuộc thương thuyết, tôi nhún vai với ông ấy, và ông ấy bật cười.
“Thật là cặp đôi bất kham. Được rồi, các cô gái, hãy vào phòng Alba và yên lặng chơi trong giây lát đi.” Chúng vùng vằng bỏ đi. Tôi chắc rằng chỉ sau vài phút, chúng sẽ lại vui vẻ chơi với nhau.
“Rất vui khi được gặp lại cô, Clare”, Kendrick nói trong lúc Alicia thong thả bước tới gần.
“Clare, trông bố kìa.” Tôi nhìn theo ánh mắt của Alicia và nhận ra bố tôi đang tán tỉnh Isabelle. “Ai đấy?”
“Ôi trời”, tôi cười lớn. “Đó là Isabelle Berk.” Tôi giải thích quan điểm và xu hướng tình dục hà khắc của Isabelle cho Alicia biết. Chúng tôi cười ngặt nghẽo đến thở không ra hơi. “Hoàn hảo, tuyệt vời. Ôi, chết mất”, Alicia nói trong nước mắt.
Richard đang bước lại gần thì khựng lại trước sự kích động của chúng tôi. “Có chuyện gì thú vị vậy, các quý cô xinh đẹp?”
Chúng tôi lắc đầu, vẫn không ngừng khúc khích. “Họ đang mỉa mai nghi lễ chọn bạn tình của đấng sinh thành đầy uy quyền của bọn họ”, Kendrick nói. Richard gật đầu ngơ ngác, và hỏi Alicia về lịch biểu diễn mùa xuân của con bé. Họ vừa đi về phía nhà bếp vừa trò chuyện về Bartok. Kendrick vẫn đang đứng cạnh tôi, đợi để nói về điều tôi không muốn nghe. Tôi định cáo lui thì ông ấy đặt tay lên tay tôi.
“Đợi đã, Clare...” Tôi đợi. “Tôi rất xin lỗi”, ông ấy nói.
“Không sao đâu, David.” Chúng tôi nhìn nhau đăm đăm trong giây lát. Rồi Kendrick lắc đầu và mò mẫm tìm thuốc. “Nếu khi nào cô muốn ghé qua phòng thí nghiệm, tôi sẽ chỉ cho cô xem những gì chúng tôi đang làm cho Alba...” Tôi đảo mắt khắp nơi tìm Henry. Gomez đang dạy Sharon điệu rumba trong phòng khách. Mọi người đều đang vui vẻ, chỉ có Henry là chẳng thấy tăm hơi. Ít nhất đã 45 phút tôi chưa nhìn thấy anh ấy. Tôi nóng lòng muốn tìm anh ấy, muốn chắc chắn rằng anh ấy vẫn ổn, rằng anh ấy vẫn đang ở đây. “Xin thứ lỗi”, tôi nói với Kendrick, người có vẻ như vẫn đang muốn tiếp tục cuộc trò chuyện. “Để lần khác nhé, khi yên tĩnh hơn.” Ông ấy gật đầu. Dù sao thì Nancy Kendrick cũng đang xuất hiện trở lại với Colin lẽo đẽo theo sau, khiến cuộc trò chuyện là bất khả thi. Họ hồ hởi lao vào chủ đề khúc côn cầu trên băng, còn tôi lẻn trốn.
(9 giờ 48 phút tối)
HENRY: Trong nhà đang dần nóng lên, tôi cần phải ra ngoài hóng gió một lát nên đã đẩy xe ra hiên nhà ngồi. Tôi vẫn nghe thấy tiếng mọi người trò chuyện trong phòng khách. Tuyết đang rơi nhanh và dày hơn, che phủ khắp các bụi cây và xe cộ, làm mềm những đường nét cứng cáp của chúng và ngăn chặn âm thanh của giao thông trên các con lộ. Một đêm tuyệt đẹp. Tôi mở cửa chắn giữa hiên nhà và phòng khách.
“Này, Gomez.”
Gomez phi nước kiệu chạy lại và thò đầu ra cửa, “Sao?”
“Ra ngoài này một chút đi.”
“Lạnh lắm.”
“Đi nào, lão già hom hem yếu đuối.”
Có gì đó trong ngữ điệu của tôi đã làm Gomez cắn câu. “Được rồi, được rồi. Chờ chút coi.” Cậu ấy biến mất và quay trở lại sau vài phút, áo choàng khoác trên người, tay cầm áo của tôi. Trong lúc tôi loay hoay mặc áo, Gomez chìa chai rượu đút túi của cậu ấy về phía tôi.
“Ồ, không, cảm ơn cậu.”
“Là Vodka. Cho ấm người.”
“Phản ứng với thuốc phiện.”
“Ồ, phải. Đãng trí làm sao.” Gomez đẩy tôi qua phòng khách. Khi ra đến đầu bậc thềm, cậu ấy nhấc bổng tôi lên, và cõng tôi trên lưng như một đứa trẻ, như một con khỉ, rồi chúng tôi bước qua cửa chính, không khí lạnh như một lớp vỏ cứng bọc lên người. Tôi có thể ngửi thấy mùi rượu trong mồ hôi của Gomez. Đâu đó ngoài kia, đằng sau ánh sáng chói loà hào nhoáng của Chicago, những ngôi sao đang trú ngụ trên bầu trời.
“Này chiến hữu.”
“Hử?”
“Cảm ơn cậu về mọi chuyện. Cậu đã là một người bạn tuyệt vời...” Tôi không thể nhìn thấy mặt Gomez, nhưng tôi có thể cảm nhận được cậu ấy đang cứng người lại bên dưới lớp quần áo.
“Cậu đang muốn nói gì?”
“Nữ thần báo tử của tớ đã cất tiếng hát rồi, Gomez. Thời gian đã hết. Cuộc chơi đã tàn.”
“Khi nào?”
“Sớm thôi.”
“Sớm đến mức nào?”
“Tớ không biết”, tôi nói dối. Rất, rất sớm thôi. “Tớ chỉ muốn nói rằng... tớ biết đôi khi tớ đã cư xử như một thằng khốn”, (Gomez bật cười) “nhưng chúng ta đã có những khoảng thời gian vui vẻ”, (tôi ngừng lại vì đang chực khóc) “rất vui vẻ”, (và chúng tôi đứng đó, hai người đàn ông ăn nói vụng về, hơi thở đóng băng thành những luồng khói trắng trước mặt, tất cả những lời muốn nói bị bỏ lại không thể nói ra) và cuối cùng tôi nói, “Hãy vào nhà thôi.” Trong lúc nhẹ nhàng đặt tôi xuống xe lăn, Gomez ôm lấy tôi trong giây lát, rồi nặng nề bước đi mà không ngoảnh lại.
(10 giờ 15 phút tối)
CLARE: Henry không có trong phòng khách, nơi mọi người đang tụm nhau lại và nhảy, theo nhiều phong cách khác lạ, theo giai điệu của Squirrel Nut Zippers. Charisse và Matt đang nhảy gì đó trông như cha-cha, còn Roberto đang khiêu vũ khá tinh tế cùng Kimy, người di chuyển nhẹ nhàng nhưng vững chãi. Gomez đã bỏ rơi Sharon để nhảy cùng Catherine, người đang kêu oai oái khi anh ấy xoay cô vòng vòng và cười sặc sụa khi anh ấy dừng lại để châm thuốc.
Henry không có trong bếp, nơi đang bị chiếm dụng bởi Raoul, James, Lourdes và số còn lại của những người bạn hoạ sĩ của tôi. Họ đang tiêu khiển cho nhau bằng các câu chuyện về những điều tồi tệ mà các nhà môi giới nghệ thuật làm với nghệ sĩ và ngược lại. Lourdes đang kể chuyện về cái lỗ mà tác phẩm của Ed Kienholtz đã để lại trên chiếc bàn đắt tiền của người môi giới của anh ta. Họ hùa nhau cười phá lên thích thú. “Đừng để Leah nghe được những gì cậu nói”, tôi chòng ghẹo. “Leah đâu rồi?” James lên tiếng. “Tôi cược rằng cô ấy có nhiều chuyện thú vị để kể...” Nói đoạn James bỏ đi tìm người môi giới của tôi, người đang uống cognac với Mark ở cầu thang.
Ben đang tự pha cho mình một cốc trà. Anh ấy lôi ra chiếc túi đựng đủ loại thảo dược bên trong, rồi cẩn thận đo số lượng đổ vào trong túi lọc và nhúng nó vào cốc nước nóng. “Anh có thấy Henry đâu không?” tôi hỏi.
“Có, tôi vừa nói chuyện với cậu ấy. Cậu ấy đang ở hiên trước.” Ben lén nhìn tôi. “Tôi khá lo lắng về Henry. Cậu ấy có vẻ rất buồn. Cậu ấy có vẻ...” Ben dừng lại và khua tay ngụ ý có lẽ tôi nhầm “cậu ấy khiến tôi nghĩ đến thái độ của một số bệnh nhân cũ, khi họ biết mình không còn sống được bao lâu nữa...” Ruột gan tôi thắt lại.
“Anh ấy đã trở nên khá buồn rầu kể từ khi đôi chân không còn...”
“Tôi biết. Nhưng cậu ấy nói chuyện như thể đang chuẩn bị bước lên chuyến tàu sắp rời bến. Cậu ấy nói với tôi...” Ben hạ giọng thủ thỉ, khiến tôi khó có thể nghe rõ anh ấy nói gì. “Cậu ấy nói với tôi rằng cậu ấy rất quý tôi, và cảm ơn tôi... Ý tôi là, người ta, đàn ông, không nói những điều như vậy trừ khi họ không còn sống được bao lâu nữa.” Mắt Ben mọng nước sau cặp kính cận. Tôi quàng tay ôm lấy anh ấy, và chúng tôi đứng như vậy trong giây lát, hai tay tôi giữ lấy thân hình rũ rượi của Ben. Mọi người đang trò chuyện xung quanh chúng tôi, ngó lơ chúng tôi. “Tôi không muốn sống lâu hơn bất kì ai tôi biết”, Ben nói. “Chúa ạ, sau khi uống cái thứ khủng khiếp này và sống dặt dẹo ốm yếu suốt 15 năm, tôi cứ nghĩ tôi đã có được cái quyền tụ họp tất cả mọi người xung quanh quan tài của tôi và nói, ‘Cậu ấy đã tranh đấu cho đến hơi thở cuối cùng’, hay điều gì tương tự. Tôi đã hi vọng Henry sẽ ở đó và trích lời Donne, ‘Hỡi Tử thần, đừng có kiêu ngạo, cái thằng khốn nhà ngươi’. Và đó sẽ là một tang lễ xúc động.”
Tôi bật cười. “Nếu Henry không thể có mặt, tôi sẽ thay anh ấy làm việc đó. Tôi sẽ bắt chước một Henry ác khẩu.” Tôi nhướn một bên chân mày, hất cao cằm, và hạ giọng: “Một giấc ngủ ngắn trôi qua, ta muôn đời tỉnh giấc, và Tử thần sẽ chỉ biết ngồi trong bếp lúc ba giờ sáng trong chiếc quần đùi của hắn và chơi ô chữ tuần trước...” Ben phì cười. Tôi hôn lên gò má nhẵn thín xanh xao của anh ấy rồi bước đi.
Henry đang ngồi một mình ngoài mái hiên trong bóng tối, nhìn tuyết rơi. Tôi đã không ngó ra ngoài cửa sổ cả ngày nay, nên giờ tôi mới nhận ra tuyết đã rơi nặng hạt trong hàng giờ đồng hồ. Máy ủi tuyết đang ì ạch lăn trên đại lộ Lincoln, và những người hàng xóm của chúng tôi đang cặm cụi xúc tuyết trên vỉa hè nhà họ. Mặc dù mái hiên được vây kín nhưng vẫn thật lạnh.
“Hãy vào nhà nhé”, tôi nói. Tôi đứng bên cạnh Henry, ngắm một chú chó chạy tung tăng trên tuyết bên kia đường. Henry đưa tay ôm lấy tôi và dựa đầu vào hông tôi.
“Anh ước gì chúng ta có thể khiến thời gian ngừng lại giây phút này”, anh ấy nói. Tôi đưa tay vuốt tóc anh ấy. Chúng khô cứng và dày hơn trước, khi chúng chưa điểm bạc.
“Clare”, anh ấy nói.
“Henry.”
“Đã đến lúc...” anh ấy ngừng lại.
“Sao cơ?”
“Đã... Anh sắp...”
“Ôi Chúa ơi.” Tôi ngồi xuống trường kỉ, đối mặt với Henry. “Nhưng... đừng. Hãy ở lại với em.” Tôi nắm chặt đôi bàn tay của anh ấy.
“Đó là sự đã rồi. Nào, hãy để anh được ngồi gần em.” Anh ấy đu người khỏi xe lăn và ngồi xuống trường kỉ. Chúng tôi nằm xuống trên tấm vải lạnh tái tê. Tôi run rẩy dưới lớp vải mỏng tang của chiếc đầm dạ vũ. Trong nhà, mọi người vẫn đang cười nói và nhảy múa. Henry đưa tay ôm lấy tôi, giữ ấm cho tôi.
“Tại sao anh không nói với em? Tại sao anh để em mời tất cả những người này đến?” Tôi không muốn nổi giận, nhưng không khỏi bộc phát.
“Anh không muốn em ở một mình... sau khi anh chết. Và anh cũng muốn được nói lời tạm biệt với tất cả mọi người. Tối nay là một đêm tuyệt diệu, là một lời chú tụng cuối...” Chúng tôi nằm đó trong im lặng một hồi. Tuyết cũng im lặng rơi.
“Mấy giờ rồi?”
Tôi nhìn đồng hồ. “Hơn 11 giờ một chút.” Ôi Chúa ơi, Henry kéo tấm chăn từ chiếc ghế bên cạnh, và chúng tôi choàng nó lên người nhau. Tôi không thể tin được điều này. Tôi đã biết giây phút này sẽ đến, sớm hay muộn, nhưng giờ thì nó thực sự đã đến, và chúng tôi chỉ nằm đây, chờ đợi...
“Ôi, tại sao chúng ta không thể làm được điều gì đó?” Tôi thì thầm vào tai Henry.
“Clare...” Hai tay Henry ôm chặt lấy tôi. Tôi nhắm mắt lại.
“Hãy ngăn nó, hãy khước từ nó khỏi diễn ra. Hãy thay đổi nó!”
“Ôi, Clare.” Henry thổn thức, tôi ngước lên nhìn anh ấy. Mắt anh ấy loé lên những giọt nước mắt trong ánh sáng phản chiếu từ tuyết. Tôi đặt má lên vai Henry. Anh ấy vuốt tóc tôi. Chúng tôi nằm đó, tưởng chừng như cả thế kỉ đã trôi qua. Henry đổ mồ hôi. Tôi đưa tay lên má anh ấy và nhận ra anh ấy đang nóng bừng lên vì cơn sốt.
“Mấy giờ rồi?”
“Đã gần nửa đêm.”
“Anh sợ.” Tôi nắm chặt lấy tay Henry, kẹp chặt chân anh ấy. Thật khó để tin rằng Henry rất cứng cỏi, người đàn ông của cuộc đời tôi, Henry trong thân thể hữu hình mà tôi đang ghì chặt lấy bằng tất cả sức mạnh của mình, lại có thể biến mất.
“Hôn anh đi!”
Tôi hôn Henry, và rồi tôi còn lại một mình dưới tấm chăn, trên chiếc ghế trường kỉ trong mái hiên lạnh lẽo. Những bông tuyết vẫn rơi đều đặn. Trong nhà, tiếng nhạc đã ngừng chơi và tôi nghe Gomez nói, “Mười! Chín! Tám” và mọi người đồng thanh hùa theo, “Bảy! Sáu! Năm! Bốn! Ba! Hai! Một! Chúc mừng năm mới!” và tiếng nắp chai champagne được mở ra, rồi mọi người lại bắt đầu trò chuyện cùng một lượt, và có ai đó nói, “Henry và Clare đâu rồi?” Đâu đó ngoài kia có người đốt pháo hoa. Tôi đưa tay ôm mặt và chờ đợi.
Luận thuyết của nỗi khát khao
Bốn mươi ba năm cuộc đời anh. Cái kết thời gian bé nhỏ.
Thời gian của anh - người đã nhìn thấy sự bất tận qua vô vàn các vết nứt của lớp vỏ trơ trụi của vạn vật, và chết bởi nó.
–– A.S. Byatt, Chiếm hữu
Cỏ chậm rãi bước theo, cứ từ từ tiến tới,
như thể có điều gì đó ngáng đường;
ấy vậy mà: cũng như thể một khi vượt qua nó,
cô sẽ không còn phải bước thêm nữa, và cô sẽ giang cánh bay.
–– Trích Mù
Rainer Maria Rilke
Thứ Bảy, 27/10 – Thứ Hai, 1/1/2007 (Henry 43, Clare 35)
HENRY: Bầu trời trơ trụi và tôi đang rơi xuống bãi cỏ cao khô ráo, hãy đến nhanh đi, và mặc dù tôi cố ngồi im không động đậy, tiếng kêu răng rắc của cây súng trường vang lên từ xa nghe có vẻ chẳng liên quan gì đến tôi, nhưng không: tôi ngã lăn ra đất, tôi nhìn xuống cái bụng đang mở ra như quả lựu của mình, một món canh nội tạng và máu đựng trong cái bát của thân thể tôi; không đau chút nào. Không lẽ? Có ai đó đang chạy lại. Tất cả những gì tôi muốn nhìn thấy là Clare trước khi... trước khi... Tôi gọi to tên cô ấy, Clare, Clare!
Và Clare cúi xuống nhìn tôi, thổn thức khóc, còn Alba thì thầm, “Bố ơi...”
“Mãi mãi...”
“Henry...”
“Yêu em...”
“Ôi Chúa ơi, Chúa ơi...”
“Suốt đời...”
“Không!”
“Suốt kiếp...”
“Henry!”
CLARE: Phòng khách chìm trong yên lặng. Mọi người đứng yên không động đậy, đông cứng, nhìn xuống chúng tôi. Billie Holiday đang hát, rồi ai đó tắt đầu máy và sự im lặng bao trùm. Tôi ngồi trên sàn ôm chặt Henry. Alba đang quỳ bên cạnh anh ấy, thì thầm vào tai và lắc mạnh. Da Henry vẫn còn ấm, mắt anh ấy vẫn mở đang nhìn xuyên qua tôi, anh ấy nặng trĩu trên tay tôi, rất nặng, làn da xanh xao của anh ấy đang dần biến mất, màu đỏ chồm lên ngự trị, thân thể bị xé thủng đang mở ra thế giới bí mật của máu. Tôi ẵm Henry vào lòng. Có máu dính ở một bên mép của anh ấy. Tôi chùi nó đi. Pháo hoa đang được bắn lên ở đâu đó gần đây. Gomez nói, “Có lẽ chúng ta nên gọi cảnh sát.”
Biệt ly
Thứ Sáu, 2/2/2007 (Clare 35)
CLARE: Tôi ngủ suốt ngày. Tiếng động vang lên quanh nhà: tiếng xe rác chạy trong hẻm, tiếng mưa, tiếng những ngọn cây gõ cửa phòng ngủ của tôi. Tôi ngủ. Tôi sống trong giấc ngủ triền miên, muốn có nó, tận dụng nó, và xua đuổi những giấc mơ, khước từ, cự tuyệt. Giấc ngủ đã trở thành người bạn tình, sự chối bỏ, liều thuốc mê và sự lãng quên của tôi. Điện thoại đổ chuông rồi lại đổ chuông. Tôi đã tắt hộp thư thoại có tiếng trả lời của Henry. Đang là buổi trưa, đang là đêm tối, và đang là bình minh. Mọi thứ chỉ còn xoay quanh chiếc giường này, giấc ngủ bất tận biến mọi ngày vào một ngày, khiến thời gian ngừng lại, kéo giãn và co rút thời gian cho đến khi nó trở nên vô nghĩa.
Có đôi lúc giấc ngủ bỏ rơi tôi, và tôi phải giả vờ như đang ở trong nó, giống như những lần Etta vẫn đến đánh thức tôi dậy đi học. Tôi thở chậm và sâu. Tôi khiến đôi mắt mình bất động bên dưới hai mi, tôi khiến tâm trí tôi bất động, và không lâu sau giấc ngủ sẽ nhìn thấy bản sao hoàn hảo của chính nó và đến hoà làm một.
Có đôi lúc tôi thức dậy và với tay sang Henry. Giấc ngủ xoá hết mọi sự khác biệt: xưa và nay; sự sống và cái chết. Tôi không còn đói khát, không còn những sự phù du hão huyền rỗng tuếch, không còn bận tâm. Sáng nay tôi liếc thấy khuôn mặt mình trong gương khi vào nhà vệ sinh. Tôi gầy hốc hác, làn da nhợt nhạt tựa giấy, mắt thâm quầng và tóc rối bù. Tôi trông như đã chết. Tôi chẳng còn tha thiết điều gì.
Kimy ngồi cuối chân giường. Bà nói, “Clare? Alba đã đi học về... Cháu có muốn để nó vào một lát không?” Tôi giả vờ như đang ngủ. Bàn tay nhỏ nhắn của Alba vuốt má tôi. Nước mắt lọt qua khoé mắt tôi. Alba đặt thứ gì đó, ba-lô của con bé? Hay hộp đàn violon? xuống sàn nhà và Kim nói, “Cởi giày ra đã, Alba”, rồi Alba trèo lên giường với tôi. Con bé quàng tay tôi qua người nó, gối đầu bên dưới cằm tôi. tôi thở dài và mở mắt. Alba vờ như đang ngủ. Tôi nhìn đăm đăm vào đôi lông mi đen dài, vào chiếc miệng rộng và làn da trắng của con bé; con bé đang thở từ tốn, cẩn thận, nó bám lấy hông tôi bằng bàn tay mạnh mẽ, con bé có mùi bút chì mới gọt, mùi nhựa bôi dây đàn và mùi xà phòng. Tôi hôn lên đầu nó. Alba mở mắt và bóng dáng Henry trong con bé khiến tôi gần như không thể đương đầu. Kimy đứng dậy đi ra khỏi phòng.
Hãy mở ra sau khi anh mất
Ngày 10/12/2006
Clare thân yêu,
Trong lúc viết những dòng chữ này, anh đang ngồi ở chiếc bàn trong căn phòng ngủ cuối nhà và nhìn ra xưởng vẽ của em bên kia khu vườn đầy tuyết xanh của trời đêm, mọi vật trơn bóng và giòn giã trong băng tuyết, thật tĩnh lặng. Đó là một trong những buổi tối khi cái lạnh của vạn vật dường như khiến thời gian chậm lại, như điểm giữa của chiếc đồng hồ cát nơi thời gian chảy qua từ tốn. Anh có cảm giác, rất giống với những khi anh sắp hết thời gian nhưng hầu như không bao giờ ngược lại, rằng anh đang trôi bồng bềnh trong dòng thời gian, lênh đênh thư thái trên bề mặt của nó như một phụ nữ phì nhiêu đang bơi lội. Có gì đó thúc giục anh, trong buổi tối ở nhà một mình này (em đang đi dự buổi tiệc độc tấu của Alicia ở nhà thờ thánh Lucy) phải viết cho em một lá thư. Bỗng nhiên anh muốn để lại thứ gì đó, sau khi anh mất. Anh nghĩ rằng thời gian còn lại của mình đang dần cạn kiệt. Anh cảm thấy như thể năng lượng, niềm vui thú, sự duy trì dự trữ của mình đang rất mong manh và nhỏ bé. Anh không nghĩ mình có thể tiếp tục được lâu nữa. Anh biết rằng em hiểu.
Nếu em đang đọc những dòng chữ này, thì chắc hẳn anh đã chết. (Anh nói chắc hẳn, vì chúng ta chẳng bao giờ biết được chuyện gì sẽ xảy ra; sẽ là ngớ ngẩn và tự coi trọng bản thân thái quá nếu vạch định cái chết của ai đó như một sự việc tuyệt đối.) về phần mình, anh hi vọng nó sẽ đơn giản, nhanh chóng và rõ ràng. Anh hi vọng rằng mình sẽ không khiến mọi chuyện trở nên om xòm. Anh xin lỗi. (Những lời này nghe như một bức thư tuyệt mệnh. Thật lạ.) nhưng em biết rằng nếu có thể ở lại, nếu anh có thể lựa chọn tiếp tục sống, anh sẽ bấu víu vào từng giây phút. Cái chết này, bất kể nó là gì, em biết nó đã tự tìm đến anh và mang anh đi như một đứa trẻ bị bắt bởi những con yêu tinh.
Clare, anh muốn nói với em một lần nữa, rằng anh yêu em. Tình yêu của chúng ta đã như một sợi chỉ dẫn lối qua mê hồn trận, như tấm lưới chắn bên dưới người đu dây, là điều duy nhất có thực trong cuộc sống kì lạ này của anh để anh tin tưởng. Đêm nay anh cảm thấy tình yêu của anh dành cho em hiện hữu trong thế giới này nhiều hơn cả bản thân mình, như thể nó sẽ nán lại và vây quanh em, giữ lấy em và ôm em vào lòng sau khi anh đi mất.
Anh ghét phải nghĩ đến việc để em phải chờ đợi. Anh biết em đã đợi anh cả cuộc đời này, luôn tự hỏi con đường của sự chờ đợi này còn kéo dài đến bao lâu. Mười phút, mười ngày. Một tháng. Anh thật là một ông chồng vô dụng, chẳng thể cậy nhờ, còn em, Clare, như một người thuỷ thủ, như Odysseus đơn độc và bị vùi dập bởi những con sóng lớn, bởi những trái ngang và đôi khi chỉ như một món đồ chơi của Thượng đế. Hãy vì anh, Clare. Sau khi anh chết, hãy thôi chờ đợi, hãy tự do, hãy giải phóng mình khỏi anh. Hãy đặt anh vào sâu thẳm trong em và tiến vào thế giới ngoài kia mà sống. Hãy yêu thế giới ngoài kia và yêu chính em trong nó, hãy đi qua nó như thể nó chẳng mang lại trở ngại gì cho em, như thể thế giới là một phần tự nhiên của em. Anh đã mang đến cho em một cuộc sống vội vã bất định. Anh không có ý nói rằng em đã không sống. Em đã tạo ra những điều tuyệt diệu và ý nghĩa, trong các tác phẩm của em, trong Alba, con bé thật không lời nào tả xiết; và đối với anh, đối với anh, em là tất cả.
Sau khi mẹ anh mất, bố anh đã không còn nhựa sống. Chắc hẳn bà sẽ rất buồn nếu biết được. Mọi phút trong cuộc sống của bố anh kể từ đó đã nhuốm màu u tối vì sự ra đi của mẹ, mọi hành động của ông đã thiếu chiều kích vì bà không còn ở đó để làm chuẩn mực. Khi còn trẻ, anh đã không hiểu, nhưng giờ, giờ thì anh đã hiểu, sự biệt li có thể theo ta như một tổn thương vĩnh cửu, như một con chim đen.
Nếu anh phải sống mà không có em, anh biết rằng mình sẽ không thể chịu nổi. Anh có một giấc mơ, anh nhìn thấy em bước đi vững vàng, mái tóc em long lanh dưới ánh nắng. Tuy chỉ là một giấc mộng, nhưng nó đã gắn chặt vào tâm trí anh, anh luôn muốn khắc hoạ hình ảnh đó, và anh hi vọng rằng nó sẽ trở thành sự thật.
Clare, còn một điều cuối cùng mà anh đã không dám nói với em, vì anh sợ rằng nếu anh nói ra nó sẽ không thể trở thành sự thật (anh biết, thật ngớ ngẩn phải không?) và bởi vì anh vừa không ngừng khuyên em hãy thôi chờ đợi và điều này có thể sẽ là nguyên nhân khiến em phải chờ đợi dài hơn tất cả những lần chờ đợi trước đây. Nhưng anh sẽ nói, phòng khi em cần điều gì đó giúp em bước tiếp, sau khi anh chết.
Mùa hè trước, khi anh đang ngồi trong phòng đợi của Kendrick thì đột nhiên anh thấy mình đứng giữa hành lang của một ngôi nhà xa lạ. Anh mắc kẹt giữa một núi ủng đi mưa, chúng có mùi như những cơn mưa rào. Cuối hành lang, ánh sáng mờ ảo đang bao quanh cánh cửa, nên anh đã tiến lại gần cửa rồi nhìn vào trong, rất chậm rãi và rất khẽ khàng. Căn phòng có màu trắng, và ngập tràn trong ánh bình minh. Bên cửa sổ, một phụ nữ đang ngồi quay lưng lại phía anh, và mặc chiếc áo len màu đỏ san hô, mái tóc dài bạc trắng xoã xuống lưng. Một cốc trà đặt trên chiếc bàn bên cạnh. Chắc hẳn anh đã gây ra tiếng động, hoặc cũng có thể bà ấy cảm nhận được anh đang đứng phía sau nên đã quay lại và nhìn thấy anh. Người phụ nữ đó là em, Clare, đó là em trong hình hài của một bà lão, ở tương lai. Anh đã thật hạnh phúc, Clare, thật hạnh phúc không lời nào tả xiết khi được gặp em, như trở về từ cái chết và ôm em vào lòng, được nhìn những năm tháng hiển hiện trên khuôn mặt em. Anh sẽ không kể cho em thêm nữa, để em có thể tự hình dung, để em có thể bất ngờ đón nhận nó khi thời gian đến, vì nó sẽ, và nó đã. Chúng ta sẽ gặp lại nhau, Clare ạ. Cho đến khi đó, hãy sống thật trọn vẹn và sống cho hiện tại trong thế giới tuyệt đẹp này.
Trời đã tối và anh đang dần kiệt sức. Anh yêu em, mãi mãi. Thời gian chẳng có nghĩa lí gì với tình yêu đó.
Henry.
Tồn tại
Thứ Bảy, 12/7/2008 (Clare 37 tuổi)
CLARE: Charisse đã đưa Alba, Rosa, Max và Joe đi trượt pa-tanh ở Rainbo. Tôi lái xe đến nhà cậu ấy để đón Alba, nhưng tôi đến sớm còn Charisse về muộn. Gomez cuốn khăn tắm ra mở cửa.
“Em vào đi”, anh ấy nói, rồi mở rộng cửa ra. “Cà phê nhé?”
“Được thôi.” Tôi đi theo anh ấy qua phòng khách bừa bộn của họ vào nhà bếp. Tôi ngồi xuống chiếc bàn vẫn đang ngổn ngang bát đĩa từ bữa sáng, dọn một chỗ đủ rộng để đặt khuỷu tay lên mặt bàn, Gomez sục sạo quanh nhà bếp để pha cà phê.
“Lâu lắm không thấy mặt em.”
“Em khá bận. Alba đang đi học đủ thứ, em phải đưa con bé đi khắp nơi.”
“Em vẫn sáng tác chứ?” Gomez đặt tách và đĩa xuống trước mặt tôi rồi rót cà phê vào. Sữa và đường đã có sẵn ở bàn nên tôi tự lấy.
“Không.”
“Ồ.” Gomez đứng tựa vào bàn nấu ăn, tay ôm cốc cà phê của mình. Tóc anh ấy đen bóng vì nước và được chải phẳng lì. Tôi đã không để ý đường chân tóc của Gomez đang lùi dần về phía sau. “Ngoài việc đưa đón công chúa của em đi khắp nơi, em còn làm gì nữa?”
Tôi làm gì? Tôi đợi. Tôi nghĩ. Tôi ngồi trên giường và ôm chiếc áo vẫn còn vương mùi Henry, hít vào căng phổi mùi hương của anh ấy. Tôi đi lang thang lúc hai giờ sáng, khi Alba đã ngủ an toàn trên giường của con bé; đi những đoạn đường dài cho đến khi mệt lả để có thể chìm vào giấc ngủ. Tôi trò chuyện với Henry như thể anh ấy vẫn còn ở đây bên tôi, như anh ấy có thể nhìn thấy qua đôi mắt tôi, và suy nghĩ bằng trí não tôi.
“Không có gì nhiều.”
“Hừm.”
“Anh thì sao?”
“Em biết rồi đấy. Công việc. Đóng vai trưởng giả nghiêm khắc trong nhà. Những việc bình thường.”
“Ồ.” Tôi nhấp một ngụm cà phê. Tôi nhìn đồng hồ phía trên bồn rửa bát. Nó có hình dáng một con mèo đen: đuôi nó lắc lư qua lại như một quả lắc và cặp mắt to chuyển động theo mỗi nhịp, kêu tíc tắc ầm ĩ. Đang là 11 giờ 45 phút.
“Em có muốn ăn gì không?”
Tôi lắc đầu. “Không, cảm ơn anh.” Dựa trên đống bát đĩa trên bàn, tôi biết Charisse và Gomez đã ăn dưa mật, trứng bác và bánh mì cho bữa sáng. Lũ trẻ đã ăn Lucky Charms, Cheerios và thứ gì đó có lẫn bơ đậu phộng. Bàn ăn chính thị là hiện trường tái diễn bữa ăn sáng của một gia đình thế kỉ hai mươi mốt.
“Em có đang hẹn hò với ai không?” Tôi nhìn lên và Gomez vẫn tựa người vào chiếc bàn nấu ăn, vẫn giữ cốc cà phê ngang cằm.
“Không.”
“Tại sao không?”
Không phải việc của anh, Gomez ạ. “Em chỉ đơn giản không nghĩ đến nó.”
“Em nên nghĩ đến nó.” Anh ấy đặt cốc vào bồn.
“Tại sao?”
“Em cần điều gì đó mới mẻ. Cần ai đó mới mẻ. Em không thể cứ ngồi một chỗ và đợi Henry xuất hiện cả đời được.”
“Dĩ nhiên em có thể. Cứ chờ mà xem.”
Gomez tiến tới hai bước và đứng sát cạnh tôi. Anh ấy nhoài người và ghé miệng sát tai tôi. “Em không bao giờ nhớ điều này sao?” Anh ấy liếm tai tôi. Có, tôi có nhớ. “Cút đi, Gomez”, tôi rít lên với anh ấy, nhưng tôi không tránh đi chỗ khác. Tôi bị dính chặt vào ghế của mình bởi ý nghĩ đó. Gomez vén tóc tôi lên và hôn vào sau cổ của tôi.
Hãy đến với em! Ôi! Hãy đến với em!
Tôi nhắm mắt lại. Đôi bàn tay léo tôi ra khỏi ghế, cởi cúc áo tôi. Một chiếc lưỡi đặt lên cổ tôi, lên vai tôi và lên ngực tôi. Tôi với tay ra mò mẫm, chiếc khăn tắm rơi xuống sàn. Henry. Đôi bàn tay cởi cúc quần jeans của tôi, kéo chúng xuống, ngả người tôi xuống bàn ăn. Có thứ gì đó bằng kim loại rơi xuống. Thức ăn và dao đĩa, một chiếc đĩa bán nguyệt, vỏ nhựa dính dưới lưng tôi. chân tôi dạng ra. Lưỡi đặt lên vùng kín. “Ôi!” Chúng tôi đang ở trong đồng cỏ. Đang là mùa hè. Một cái chăn màu xanh. Chúng tôi vừa ăn, vị của dưa vẫn còn ở trong miệng. Lưỡi rời ra bỏ lại một khoảng trống, ướt và rộng mở. Tôi mở mắt ra; tôi đang nhìn chằm chằm vào cái cốc nước cam chỉ còn một nửa. Tôi nhắm mắt lại. dương v*t của Henry đều đặn đi vào trong tôi mạnh mẽ. Phải. Em đã rất kiên nhẫn chờ đợi. Henry. Em biết sớm hay muộn anh cũng sẽ trở lại thăm em. Phải. Da chạm da, tay chạm ngực, đôi thân thể bám vào nhau đẩy theo nhịp.
“Ôi, Henry...”
Tất cả dừng lại. Chỉ còn tiếng đồng hồ đang kêu tích tắc. Tôi mở mắt ra. Gomez đang nhìn chằm chằm xuống tôi bằng vẻ tổn thương hay giận dữ? Trong khoảnh khắc, mặt anh ấy vô cảm. Tiếng cửa xe đóng lại. Tôi ngồi dậy, nhảy xuống khỏi bàn và chạy vào phòng tắm, Gomez ném quần áo của tôi vào theo.
Trong lúc mặc quần áo, tôi nghe tiếng Charisse và lũ trẻ đi vào cửa trước, cười đua. Alba gọi, “Mẹ ơi!” và tôi thét lên đáp lại, “Mẹ sẽ ra ngay!” Tôi đứng trong ánh sáng mờ ảo của căn phòng tắm bằng gạch đen và hồng, nhìn chăm chăm vào chính mình trong gương. Tóc tôi dính Cheerios. Hình ảnh của tôi trong gương xanh xao và lạc lối. Tôi rửa tay, cố chải lại tóc bằng những đầu ngón tay. Mình đang làm gì thế này? Mình đã chấp nhận để cho chính mình trở thành loại người gì thế này?
Rồi câu trả lời vụt đến: Giờ mày đã là một kẻ lãng du.
Thứ Bảy, 26/7/2008 (Clare 37 tuổi)
CLARE: Phần thưởng cho Alba vì đã ngoan ngoãn đợi ở các phòng tranh trong lúc tôi và Charisse ngắm các tác phẩm là được đi đến Ed Debevic, một nhà hàng có các hoạt động đặc biệt dành cho thực khách. Ngay khi chúng tôi bước qua cửa, không khí của những năm 1964 tràn ngập. The Kinks đang chơi hết cỡ và các khẩu hiệu được treo khắp nơi:
“Nếu bạn là khách hàng tốt, bạn sẽ gọi thêm món!!!”
“Vui lòng nói rõ ràng khi gọi món.”
“Cà phê của chúng tôi rất ngon, bản thân chúng tôi cũng uống nó!”
Hôm nay là ngày bong bóng động vật; một quý ông trong bộ com-lê màu tía bóng lộn lôi ra một con chó Dachshund cho Alba rồi biến nó thành một cái mũ và đặt nó lên đầu con bé. Con bé vui mừng quấn quít. Chúng tôi xếp hàng suốt nửa tiếng mà Alba không hề phàn nàn một tiếng; con bé ngắm những cô cậu bồi bán tán tỉnh nhau và âm thầm định lượng những con vật bằng bong bóng của những đứa trẻ khác. Cuối cùng chúng tôi được dẫn tới bàn của mình bởi một cậu bồi bàn đeo cặp kính gọng sừng dầy cộm, bảng tên của cậu ta ghi SPAZ. Charisse và tôi mở thực đơn, cố tìm món gì đó ở giữa phô mai Cheddar rán và thịt viên chiên. Alba nói sữa đánh đá liên hồi. Khi Spaz xuất hiện trở lại, Alba bỗng nhiên trở nên ngượng nghịu và phải được dỗ mãi mới nói cho cậu ta biết con bé muốn gọi một li sữa đánh đá vị bơ đậu phộng (và một phần khoai tây chiên nhỏ, vì tôi bảo nó rằng chỉ uống sữa đánh đá vào bữa trưa là không tốt). Charisse gọi mì ống trộn pho mát, còn tôi gọi bánh mì tròn kẹp thịt xông khói, cà chua và xà lách. Khi Spaz vừa đi khuất, Charisse ngân nga, “Alba và Spaz, ngồi trên cây, H-Ô-N...” Alba nhắm mắt lại và đưa tay bịt tai, vừa lắc đầu vừa mỉm cười. Cậu bồi bàn có bảng tên BUZZ oai vệ đi về phía máy karaoke và bật I Love That Old Time Rock and Roll của Bob Seger.
“Tớ ghét Bob Seger”, Charisse nói. “Cậu nghĩ ông ta có mất 30 giây để viết bài hát đó không?”
Sữa đánh đá được mang đến trong chiếc cốc cao với cái ống hút xoắn tít và một ống lắc bằng kim loại đựng số sữa đánh đá không thể chứa thêm trong cốc. Alba đứng dậy để uống, con bé đứng bằng đầu ngón chân để có được góc đứng tốt nhất nhắm cúi xuống hút món sữa đánh đá và bơ đậu phộng. Con chó Dachshund bằng bong bóng cứ không ngừng trượt xuống trán con bé, làm gián đoạn sự tập trung. Con bé ngẩng đầu lên nhìn tôi sau cặp lông mi đen dày của nó và đẩy cái mũ bong bóng lên cao đến nỗi nó chỉ còn bám được vào đầu con bé nhờ tĩnh điện.
“Khi nào bố về ạ?” con bé hói. Charisse phát ra một tiếng động mà người ta vẫn phát ra khi không may để Pepsi chạy lên mũi, rồi bắt đầu ho sặc sụa. Tôi vỗ vào lưng cậu ấy cho đến khi cậu ấy giơ tay ra hiệu bảo tôi dừng lại.
“29 tháng Tám”, tôi nói với Alba. Con bé quay trở lại hút xì xụp cặn của cốc sữa đá trong lúc Charisse nhìn tôi trách móc.
Một lát sau, chúng tôi ngồi trên xe trên cao lộ Lake Shore Drive; tôi cầm lái còn Charisse nghịch đài radio, Alba ngủ trên ghế sau. Tôi rẽ ra khỏi xa lộ ở công viên Irving và Charisse nói, “Alba không biết rằng Henry đã chết sao?”
“Dĩ nhiên con bé biết. Nó đã nhìn thấy Henry lúc anh ấy qua đời”, tôi nhắc cho Charisse nhớ.
“Vậy thì tại sao cậu nói với con bé rằng anh ấy sẽ về vào tháng Tám?”
“Bởi vì anh ấy sẽ. Chính anh ấy đã đưa cho tớ danh sách ngày tháng.”
“Ồ.” Cho dù mắt tôi đang dán vào tường, tôi vẫn có thể cảm nhận được Charisse đang nhìn tôi chằm chằm. “Như vậy không phải kì lắm sao?”
“Alba thích như vậy.”
“Kì đối với cậu.”
“Tớ không gặp anh ấy.” Tôi cố giữ giọng bình thản, như thể tôi không bị hành hạ bởi sự bất công này, như thể tôi không nuốt cơn oán giận vào lòng khi Alba kể với tôi về những lần gặp gỡ của con bé và Henry, cho dù tôi đang nuốt từng lời nó kể.
Tại sao không phải em, Henry? Tôi hỏi anh ấy trong im lặng trong lúc rẽ vào lối đi ngổn ngang đồ chơi dẫn tới nhà Charisse và Gomez. Tại sao chỉ Alba? Nhưng như thường lệ, chẳng có câu trả lời. Như thường lệ, chuyện phải là như thế. Charisse hôn tạm biệt tôi và bước xuống xe, bình thản bước về phía chiếc cửa đang mở ra huyền ảo, để lộ Gomez và Rosa đang đứng đó, Rosa nhún nhảy giơ cho Charisse xem thứ gì đấy. Charisse cầm lên và đáp trả, rồi ôm chặt con bé. Gomez nhìn tôi chằm chằm, rồi cuối cùng khẽ đưa tay lên vẫy. Tôi vẫy đáp lại. Anh ấy quay người bỏ đi. Charisse và Rosa đã bước vào trong. Cánh cửa khép lại.
Tôi ngồi đó trên lối đi dẫn vào nhà, Alba đang ngủ trên ghế sau. Những con quạ đang bước đi trên bãi cỏ bồ công anh tàn tạ. Henry, anh đang ở đâu? Tôi gục đầu vào tay lái. Hãy cứu em. Không có tiếng trả lời. Sau khoảng một phút, tôi khởi động xe, đi lùi ra khỏi con đường và hướng về nhà trong im lặng.
Thứ Bảy, 3/9/1990 (Henry 27 tuổi)
HENRY: Ingrid và tôi đã để lạc mất xe và chúng tôi đang say xỉn. Trời đã tối, chúng tôi đã đi tới, đi lui, đi vòng quanh khắp xó nhưng vẫn không thấy xe. Tiên sư Lincoln Park. Tiên sư Lincoln Towing. Tiên sư chúng nó.
Ingrid tức tối. Cô ấy đang đi trước mặt tôi. Lưng của cô ấy, thậm chí cái cách hông của cô ấy chuyển động, cũng tức tối. Đây là lỗi của tôi. Câu lạc bộ đêm Park West chết tiệt. Tại sao lại có người mở câu lạc bộ đêm ở giữa Lincoln Park nơi bạn không thể đỗ xe quá mười giây mà không bị Lincoln Towing kéo về ổ để hả hê giam giữ.
“Henry.”
“Gì?”
“Lại cô bé đó.”
“Cô bé nào?”
“Cô bé chúng ta đã nhìn thấy lúc nãy.” Ingrid dừng lại. Tôi nhìn về phía cô ấy đang chỉ.
Cô bé đang đứng trước cửa hàng hoa. Nó mặc thứ gì đó sẫm màu, tất cả những gì tôi có thể nhìn thấy là khuôn mặt trắng và đôi chân trần của nó. Cô bé khoảng bảy, tám tuổi; quá nhỏ để ra ngoài một mình vào ban đêm thế này. Ingrid bước lại gần cô bé, nó đang nhìn cô ấy bình thản.
“Cháu ổn chứ?” Ingrid hỏi cô bé. “Cháu đi lạc hả?”
Cô bé nhìn tôi và nói, “Cháu đã đi lạc, nhưng giờ thì cháu biết mình đang ở đâu rồi. Cảm ơn cô.”, con bé lịch sự nói thêm.
“Cháu có cần đi nhờ về không? Bọn cô sẽ đưa cháu về nếu cô tìm được xe của mình.” Ingrid nhoài người về phía cô bé, mặt cô ấy chỉ cách nó chỉ một gang tay. Tôi bước lại gần họ và nhận ra cô bé đang mặc một chiếc áo gió của đàn ông, nó dài đến tận mắt cá chân cô bé.
“Không cần đâu ạ, cảm ơn cô. Dù sao cháu cũng sống xa nơi này lắm.” Cô bé có mái tóc đen dài và đôi mắt sáng; trong ánh đèn vàng của cửa hàng hoa, nó trông như một cô bé bán diêm thời Victoria.
“Mẹ cháu đâu?” Ingrid hỏi. Cô bé trả lời, “Mẹ cháu ở nhà.” Nó mỉm cười với tôi và nói, “Bà không biết cháu đang ở đây.”
“Cháu đã bỏ nhà đi hả?” Tôi hỏi cô bé.
“Không ạ”, cô bé đáp, và cười. “Cháu đang đi tìm bố, nhưng có lẽ cháu đã đến quá sớm. Cháu sẽ quay lại sau.” Cô bé lách qua Ingrid và tiến lại gần tôi, túm lấy áo choàng của tôi và kéo về phía cô bé. “Chiếc xe đỗ bên kia đường”, cô bé thì thầm. Tôi nhìn sang bên kia đường và thấy chiếc Porsche của Ingrid đang nằm đó. “Cảm ơn...” tôi nói, và cô bé đâm bổ tới hôn tôi, nụ hôn trượt vào gần tai, rồi chạy đi mất, đôi chân trần của nó vỗ lên mặt đường bê tông trong lúc tôi đứng đăm đăm nhìn nó. Ingrid chẳng nói gì trong lúc chúng tôi bước vào xe. Cuối cùng tôi nói, “Con bé thật lạ”, và cô ấy thở dài, nói, “Henry, là một người thông minh nhưng đôi khi anh thật chậm tiêu”, rồi cô ấy thả tôi xuống trước cửa toà nhà của tôi mà không nói thêm một lời.
Thứ Bảy, 29/7/1979 (Henry 42 tuổi)
HENRY: Đâu đó trong quá khứ, tôi đang ngồi ở bãi biển Lighthouse với Alba. Con bé mười tuổi, còn tôi bốn mươi hai. Cả hai chúng tôi đã đi xuyên thời gian. Đó là một buổi chiều muộn ấm áp, có lẽ tháng Bảy hoặc tháng Tám. Tôi đang mặc chiếc quần jeans và áo phông trắng ăn trộm được từ một căn biệt thự Bắc Evanston sang trọng; Alba mặc áo ngủ màu hồng mà con bé đã thó từ dây phơi quần áo của một bà lão nào đấy. Nó quá dài so với con bé nên chúng tôi đã buộc nó quanh đầu gối của con bé. Suốt buổi chiều mọi người cứ không ngừng ném cho chúng tôi những cái nhìn kì quái. Có lẽ chúng tôi không thực sự trông như một ông bố và cô con gái thông thường trên bãi biển. Nhưng chúng tôi đã làm hết mức có thể; chúng tôi đã đi bơi và đã xây một lâu đài bằng cát. Chúng tôi đã ăn hotdog và khoai tây chiên mua từ quầy bán dạo trong bãi gửi xe. Chúng tôi không có bạt hay cái khăn tắm nào, nên khắp người chúng tôi dính đầy cát, ẩm ướt và mệt lử. Chúng tôi đang ngắm lũ trẻ con chạy vòng quanh trước những con sóng, và những con chó đần độn phì nhiêu hớn hở chạy theo chúng. Mặt trời đang dần khuất bóng phía sau chúng tôi trong lúc chúng tôi nhìn đăm đăm lên mặt biển.
“Bố kể chuyện cho con nghe đi”, Alba nói, tựa đầu vào tôi như một sợi mì để lâu.
Tôi quàng tay qua người con bé. “Chuyện gì?”
“Một câu chuyện thú vị. Chuyện ngày xưa về bố và mẹ, khi mẹ còn bé.”
“Được rồi. Ngày xửa ngày xưa...”
“Đó là khi nào ạ?”
“Tất cả thời gian là một. Một thời gian dài về trước, và hiện tại.”
“Cả hai sao ạ?”
“Phải, luôn luôn là cả hai.”
“Làm sao có thể là cả hai?”
“Con có muốn bố kể chuyện không nào?”
“Có ạ...”
“Vậy thì ngồi yên. Ngày xửa ngày xưa, mẹ con sống trong một ngôi nhà lớn bên cạnh một đồng cỏ, và trên đồng cỏ có một nơi gọi là khoảng rừng thưa, nơi mẹ con vẫn thường ra chơi. Vào một ngày đẹp trời, mẹ con, lúc đó vẫn còn là một cô nhóc tí hon, mái tóc còn to hơn người, ra khoảng rừng thưa chơi và có một người đàn ông đang ở đó...”
“Người đàn ông không mặc quần áo!”
“Một sợi chỉ cũng không”, tôi đồng tình. “Và sau khi mẹ con đưa cho ông ấy chiếc khăn tắm mà mẹ con tình cờ mang theo, ông ấy giải thích rằng ông ấy là người du hành thời gian, và chẳng hiểu vì sao mẹ con đã tin lời ông ấy...”
“Vì đó là sự thật!”
“Phải, nhưng làm sao mẹ con biết được? Dù sao thì mẹ con cũng đã tin ông ấy, và sau đó còn ngớ ngẩn đến mức lấy ông ấy. Và giờ chúng ta ở đây.”
Alba đấm vào bụng tôi. “Bố kể cho đúng đi”, con bé yêu cầu.
“Ôi. Làm sao bố có thể kể cho con nghe điều gì nếu con cứ đánh bố như vây? Chúa ạ.”
Alba im lặng. Rồi con bé nói, “Tại sao bố không bao giờ đến thăm mẹ ở tương lai?”
“Bố không biết, Alba. Nếu có thể, dĩ nhiên bố muốn đến.” Màu xanh đang đậm dần phía chân trời và thuỷ triều đang xuống. Tôi đứng dậy, chìa tay ra cho Alba, kéo con bé đứng dậy. Con bé đứng phủi cát ra khỏi tấm áo ngủ, rồi vấp ngã về phía tôi và nói, “Ối!” rồi biến mất. Tôi đứng đó giữ chiếc áo ngủ bằng cotton ẩm ướt trên tay và nhìn đăm đăm vào dấu chân mảnh khảnh của Alba trong ánh sáng đang lụi dần.
Tái sinh
Thứ Năm, 4/12/2008 (Clare 37)
CLARE: Đó là một buổi sáng lạnh lẽo. Tôi mở cửa xưởng vẽ và giậm cho tuyết rơi khỏi ủng. Tôi kéo rèm và bật lò sưởi, pha cà phê. Tôi đứng ở góc trống giữa xưởng và nhìn quanh.
Hai năm của bụi bặm và sự tĩnh mịch chìm lên mọi đồ vật. Bàn vẽ trơ trụi. Bộ chày cối nằm sạch sẽ và trống rỗng. Những cái khuôn được sắp xếp gọn gàng, các cuộn dây chưa được đụng đến nằm cạnh bàn. Sơn và phẩm màu, các lọ đựng bút vẽ, sách vở, tất cả vẫn y nguyên như khi tôi bỏ chúng. Các bức phác hoạ tôi ghim lên tường đã úa vàng và cong queo. Tôi gỡ chúng xuống và ném vào giỏ rác.
Tôi ngồi xuống bàn vẽ và nhắm mắt lại.
Gió đang thổi những ngọn cây dập vào hông làm căn nhà kêu lên những tiếng xào xạc, một chiếc xe chạy qua vũng nước trong hẻm. Máy pha cà phê rít lên rồi kêu òng ọc khi nhỏ giọt cà phê cuối cùng vào bình. Tôi mở mắt ra, cảm thấy ớn lạnh nên ghì chặt chiếc áo len nặng nề vào người.
Sáng nay, khi tỉnh dậy, có điều gì đó đã thúc giục tôi phải đến đây. Nó như thể sự trào dâng của sắc dục: một cuộc hẹn hò vụng trộm với người tình cũ, nghệ thuật, của tôi. Nhưng giờ tôi đang ngồi đây và chờ đợi thứ gì đó đến, nhưng chẳng có gì. Tôi mở ngăn bàn phẳng lì và lôi ra một tờ giấy nhuốm chàm. Nó nặng nề và hơi thô ráp, màu xanh lam và lạnh lẽo như kim loại. Tôi đặt nó xuống bàn. Tôi đứng đó và nhìn chằm chằm nó một hồi. Tôi lôi ra một nắm bút chì màu và giữ chúng trong lòng bàn tay. Rồi tôi đặt chúng xuống và rót cho mình một cốc cà phê. Tôi nhìn ra cửa sổ cuối căn nhà. Nếu Henry ở đây, chắc hẳn anh ấy sẽ ngồi bên chiếc bàn của mình và nhìn tôi. Hoặc có thể anh ấy sẽ chơi Scrabble với Alba, đọc truyện tranh hoặc nấu súp cho bữa trưa. Tôi nhấp một ngụm cà phê và cố tìm cách cảm nhận thời gian trở lại, cố xoá đi sự khác biệt giữa xưa và nay. Chỉ có kí ức đang giữ tôi ở lại. Thời gian, hãy để tôi tan biến. Để những điều chia cách chúng ta có thể hoà làm một.
Tôi đứng trước tờ giấy nhuộm chàm, tay giữ cây bút chì màu trắng. Tờ giấy rộng mênh mông, và tôi bắt đầu từ chính giữa, cúi người trên tờ giấy cho dù tôi biết tôi sẽ thoải mái hơn nếu vẽ trên giá. Tôi vẽ khung cho bức tranh, to nửa người: đây là đỉnh đầu, háng, gót chân. Tôi phác thảo khuôn mặt. Tôi vẽ phớt, từ trí nhớ: đôi mắt trống rỗng, trung điểm, cái mũi dài, cái miệng tròn khẽ mở. Đôi lông mày nhướn lên ngạc nhiên: ồ, đó là mày. Cái cằm nhọn và quai hàm tròn trịa, trán cao và hai tai chỉ hơi ló ra. Đây là cái cổ, đôi vai chảy xuống hai tay đang khoanh trước ngực, đây là đáy vòm ngực, cái bụng phúng phính, hai hông đầy đặn, đôi chân hơi cong cong, bàn chân chĩa xuống như thể cả thân mình đang bay giữa không trung. Các điểm phác thảo như những ngôi sao trên bầu trời màu chàm của giấy; bóng người là một chòm sao. Tôi tô đậm những điểm quan trọng và bóng người trở thành ba chiều. Tôi cẩn thận vẽ mặt, tô mắt – nó đang nhìn tôi – ngạc nhiên trước sự tồn tại bất chợt. Mái tóc lượn sóng dọc tờ giấy, bồng bềnh nhẹ bẫng và bất động, những đường kẻ khiến cơ thể tĩnh lặng như đang nhúc nhích. Còn gì khác trong bức vẽ này, thế giới này? Các ngôi sao xa tít. Tôi lục trong đống đồ đạc để tìm cây kim. Tôi dán bức vẽ lên cửa sổ và bắt đầu chọc những lỗ nhỏ vào tờ giấy, mỗi lỗ trở thành một mặt trời toả sáng từ một thế giới khác. Và khi tôi đã có một thiên hà đầy sao, tôi bắt đầu chọc đến bóng người trong tranh, mà giờ đây đã thành một chòm sao thực sự, một mạng lưới của những chùm sáng nhỏ. Tôi nhìn bản sao của mình, và cô ta nhìn lại tôi. Tôi đặt ngón tay lên trán cô ta và nói. “Tan biến”, nhưng cô ta vẫn ở lại; tôi mới là người đang tan biến.
Gặp lại
Thứ Năm, 24/7/2053 (Henry 43, Clare 83)
HENRY: Tôi thấy mình đang đứng trong hành lang tối. Ở cuối hành lang, một cánh cửa đang hé mở, ánh sáng trắng bao quanh viền cửa. Hành lang ngổn ngang ủng cao su và áo đi mưa. Tôi bước chậm rãi và yên lặng về phía cửa, cẩn thận nhìn vào trong. Ánh sáng ban mai tràn ngập khắp phòng có một chiếc bàn gỗ đơn sơ đặt cạnh cửa sổ. Một người phụ nữ đang ngồi ở bàn, nhìn ra ngoài. Cốc trà đặt bên cạnh. Bên ngoài là bãi biển, những con sóng vồ vập chồm lên bờ rồi điềm tĩnh rút về theo từng đợt lặp lại. Mặt biển tĩnh lặng sau vài phút. Người phụ nữ ngồi bất động. Có điều gì đó rất quen thuộc ở bà. Đó là một người phụ nữ đã già; mái tóc bạc trắng, mỏng và xoã dài xuống cái lưng hơi còng. Bà mặc một chiếc áo len màu san hô. Đường cong trên đôi vai và sự tĩnh lặng trong dáng điệu của bà nói lên rằng đây là một người đã rất mệt mỏi, và bản thân tôi cũng rất mệt mỏi. Tôi đổi chân đứng, dồn sức nặng đang đè lên chân này sang chân kia, khiến sàn nhà kêu lên kẽo kẹt; người phụ nữ quay người lại và nhìn thấy tôi, mặt bà được tái sinh trong hạnh phúc, tôi sửng sốt, đây là Clare, Clare khi về già! Và cô ấy đang tiến lại gần tôi, rất chậm rãi, và tôi ôm cô ấy vào lòng.
Thứ Hai, 14/7/2053 (Clare 82 tuổi)
CLARE: Buổi sáng nay mọi thứ đều sáng sủa; cơn bão đã để lại những cành cây ngổn ngang trong vườn, mà tôi sẽ sớm ra đó nhặt chúng lên. Cát trên bãi biển đã được phân bổ lại, nằm tươi mới trên bờ, lỗ chỗ dấu vết những giọt mưa để lại. Những cây Hoa Hiên cong mình lấp lánh trong ánh sáng trắng lúc bảy giờ của ngày mới. Tôi ngồi bên bàn ăn với cốc trà bên cạnh, nhìn ra mặt biển, lắng nghe và chờ đợi.
Hôm nay chẳng có gì khác so với mọi ngày. Tôi thức dậy từ sớm, mặc quần và áo len, chải tóc, nướng bánh mì, pha trà và ngồi nhìn ra biển, tự hỏi liệu hôm nay anh ấy có đến. Chẳng có gì khác so với những lần anh ấy biến mất còn tôi ngồi đợi trước đây, chỉ có điều lần này tôi được biết cuối cùng Henry cũng sẽ đến. Có đôi lúc tôi tự hỏi liệu sự sẵn sàng này, sự mong ngóng này có ngăn không cho điều kì diệu xảy ra. Nhưng tôi không có lựa chọn nào khác. Anh ấy đang đến, và tôi ở đây.
Từ ngực cho đến mắt
cơn đau của nỗi khát khao dâng tràn, và cuối cùng anh cũng khóc,
người vợ thân yêu của anh, thanh cao và chung thuỷ, đang trong vòng tay anh,
mong mỏi như mặt đất ấm áp được mong mỏi bởi người đang bơi trong con sóng hung bạo khi thuyền chìm
bên dưới sự giận dữ của Poseidon, gió gào thét và biển mênh mông.
Chẳng mấy ai có thể sống sót sau những con sóng lớn
để trườn, muối đọng tấm thân, trên bãi biển yên bình
trong niềm vui sướng hạnh phúc, khi biết vực thẳm đã bị bỏ lại sau lưng:
và vì thế cô quá đỗi hân hoan, mắt nhìn chồng
đôi cánh tay bạc trắng ôm lấy anh ghì chặt trong sự vĩnh hằng.
Trích, The Odyssey
Homer
HENRY: Tôi mơ thấy mình đang ở Newberry, đang tổ chức Show’N Tell cho các sinh viên cao học của Cao đẳng Columbia. Tôi đang chỉ cho họ xem cổ tịch – các cuốn sách đầu tiên được in, rồi các mẩu tích của Gutenberg, Game and Play of Chess của Caxton, Eusebius của Jensen. Buổi giới thiệu diễn ra rất suôn sẻ, họ hỏi những câu hỏi rất thú vị. Tôi lục lọi trong xe đẩy để tìm cuốn sách đặc biệt tôi vừa tìm được trong thư viện, một cuốn sách mà tôi đã không biết chúng tôi có. Nó được bọc trong một chiếc hộp nặng nề màu đỏ không tiêu đề, chỉ có số hiệu CASE WING fZW 983.D 453, dán tem vàng có đóng dấu của thư viện Newberry. Tôi đặt chiếc hộp lên bàn và trải miếng lót ra. Tôi mở hộp, bên trong là đôi chân của tôi, hồng hào và khoẻ khoắn. Chúng nặng đến bất ngờ. Khi tôi đặt chúng lên miếng lót, những ngón chân ngoe nguẩy như muốn nói những lời chào, để nói với tôi rằng chúng vẫn có thể làm vậy. Tôi bắt đầu thuyết trình về chúng, giải thích sự liên quan giữa đôi chân của tôi với nghệ thuật in ấn Venice thế kỉ XV. Các cô cậu sinh viên chăm chú ghi chép lại. Một người trong số họ, cô gái tóc vàng xinh xắn trong chiếc áo hai dây điểm xuyết những vật trang trí sáng loá, chỉ vào đôi chân của tôi và nói, “Nhìn kìa, chúng trắng ởn!” Đúng vậy, lớp da đã chuyển sang màu trắng chết chóc, đôi chân đã không còn sự sống và đang bắt đầu phân huỷ. Tôi buồn bã nhắc mình rằng việc đầu tiên phải làm vào sáng mai là gửi chúng đến bộ phận bảo tồn.
Trong giấc mơ, tôi đang chạy. Mọi việc đều yên ổn và tốt đẹp. Tôi chạy ven hồ, từ bãi biển đường Cây sồi hướng về phía Bắc. Tôi thấy trái tim mình đập hối hả, thấy phổi mình nâng lên rồi hạ xuống nhịp nhàng. Tôi đang di chuyển đều đặn. Thật nhẹ nhõm làm sao. Tôi đã sợ mình sẽ không bao giờ có thể chạy được nữa, thế mà giờ đây tôi đang phóng như bay. Thật tuyệt.
Nhưng rồi chuyện bắt đầu tệ hại. Từng phần của cơ thể tôi lần lượt rụng rời. Đầu tiên là tay trái. Tôi dừng lại và nhặt nó lên, phủi sạch cát, rồi lại gắn vào người, nhưng nó không thể dính chặt, nó tiếp tục rụng ra chỉ sau nửa dặm. Tôi đành kẹp nó vào nách bằng tay còn lại, tự nhủ có lẽ khi về nhà, tôi có thể gắn nó chặt hơn. Nhưng rồi đến lượt tay còn lại rụng ra, và tôi chẳng còn tay nào để nhặt đôi tay tôi đã mất. Nên tôi tiếp tục chạy. Không quá tệ; nó không hề đau. Liền sau đó tôi nhận thấy của quý của mình đã tuột ra và rơi vào ống quần bên trái. Nó cứ nẩy quanh khó chịu, rồi mắc kẹt ở gấu quần bằng chun. Tôi chẳng thể làm được gì, nên tôi lờ nó đi. Rồi tôi lại cảm thấy hai bàn chân của mình đang rạn nứt trong đôi giày bên dưới, chúng rụng khỏi mắt cá khiến tôi ngã dập mặt xuống đường. Tôi biết rằng nếu tôi cứ nằm ở đây, tôi sẽ bị những người đang chạy khác dẫm đạp lên mình, nên tôi bắt đầu lăn lộn. Tôi lăn và lăn cho đến khi ra tới mặt nước biển, và những con sóng cuốn tôi ra khơi, bên dưới đại dương. Và tôi tỉnh giấc, thở hổn hển.
Tôi mơ thấy mình đang diễn ba-lê. Tôi là vũ công nữ chính. Tôi đứng trong phòng thay đồ và bị Barbara, chuyên viên phục trang của mẹ tôi, quấn lên người bộ váy nỉ bó sát màu hồng. Barbara là một người cứng cỏi, nên ngay cả khi chân tôi đang đau phát điên, tôi cũng không dám mở miệng phàn nàn trong lúc bà ân cần ấn hai gót chân của tôi vào trong đôi giày múa bằng xa-tanh màu hồng dài ngoằng. Xong xuôi, tôi loạng choạng đứng dậy và rên rỉ. “Đừng có ẻo lả như vậy” Barbara nói, nhưng rồi bà dịu lại và tiêm cho tôi một liều moóc-phin. Chú Ish xuất hiện ở ngưỡng cửa phòng thay đồ rồi chúng tôi vội vã đi qua những dãy hành lang bất tận phía sau sân khấu. Tôi biết chân của mình đang đau mặc dù tôi không thể nhìn thấy hay cảm nhận được chúng. Chúng tôi hối hả đi đến sàn diễn, và đột nhiên, khi đã đến bên cánh gà, nhìn vào sân khấu, tôi nhận ra đây là vở kịch Kẹp Hạt dẻ và tôi sắm vai bà tiên. Chẳng hiểu sao nó khiến tôi khó chịu. Đây không phải điều mà tôi trông đợi. Nhưng có ai đó khẽ đẩy tôi, và tôi lảo đảo tiến ra sân khấu. Tôi nhảy. Mắt tôi như đui chột giữa ánh đèn sân khầu, tôi nhảy mà không cần nghĩ ngợi, không cần biết đến vũ điệu, trong cơn đau mãnh liệt. Cuối cùng tôi ngã sõng soài, thút thít khóc, và khán giả đứng dậy, vỗ tay khen ngợi.
Thứ Sáu, 3/9/2006 (Clare 35, Henry 43)
CLARE: Henry giơ củ hành lên và nhìn tôi vẻ nghiêm trọng. “Đây là củ hành.”
Tôi gật đầu. “Phải, em đã được đọc về chúng.”
Anh ấy nhướn một bên chân mày. “Rất tốt. Giờ thì nghe rõ nhé, để lột vỏ hành, em lấy một con dao sắc, cầm nghiêng củ hành đã nhắc đến ở trên thớt, và bắt đầu cắt hai bên đầu, như thế này. Rồi em có thể bóc vỏ, như thế này. Được chứ? Giờ thì bắt đầu thái. Nếu em định làm hành tây tẩm bột chiên thì thái từng lát một, nhưng nếu em muốn nấu súp hay sốt mì Ý, thì em thái khúc, như thế này.”
Henry đã quyết định sẽ dạy tôi nấu ăn. Tất cả bàn nấu và tủ bếp đều quá cao so với chiếc xe lăn của anh ấy, nên chúng tôi ngồi ở bàn ăn, vây quanh bởi chén bát, dao đĩa và hộp đựng sốt cà chua. Henry đẩy thớt và dao về phía tôi. Tôi đứng dậy, lóng ngón thái hành tây. Henry kiên nhẫn theo dõi. “Được rồi, tốt lắm. Giờ đến lượt ớt xanh. Em cắt quanh chỗ này, gọt bỏ cuống.”
Chúng tôi làm sốt cà chua tỏi, pesto và lasagna. Hôm sau lại làm bánh quy, bánh sô-cô-la hạnh nhân. Alba mừng rơn. “Nhiều hơn nữa đi ạ,” con bé nài nỉ. Chúng tôi chần trứng và cá hồi, tự làm pizza. Tôi phải thừa nhận rằng nấu ăn rất thú vị. Nhưng đêm đầu tiên khi phải tự nấu bữa tối một mình, tôi rất sợ. Tôi đứng trong bếp, vây quanh bởi nồi niêu xoong chảo. Món măng tây đã quá lửa, và tôi tự làm bỏng mình khi lấy cá nhám ra khỏi lò. Tôi bày mọi thứ ra đĩa và dọn lên bàn ăn, nơi Henry và Alba đang ngồi đợi sẵn, đĩa trống đặt trước mặt. Henry mỉm cười động viên. Tôi ngồi xuống. Henry nâng li sữa và nói “Chúc mừng đầu bếp mới!” Alba cụng li với anh ấy, và chúng tôi bắt đầu ăn. Tôi nhận ra chúng có vị không tồi. “Ngon lắm mẹ ạ!” Alba nói, và Henry gật đầu. “Ngon tuyệt!” Henry tán thưởng, chúng tôi nhìn nhau không rời, và tôi nghĩ, Đừng bỏ em ở lại.
G ậy ông đập lưng ông
Thứ Hai, 18/12/2006, Chủ Nhật, 2/1/1994 (Henry 43 tuổi)
HENRY: Tôi thức dậy lúc nửa đêm vì hàng ngàn con côn trùng có răng sắc nhọn như dao cạo đang cắn xé chân tôi. Trước khi tôi kịp lôi một viên Vicodin ra khỏi lọ, tôi đã ngã xuống. Tôi gập đôi người lại. Tôi đang nằm trên sàn, những không phải sàn nhà tôi, là của ai đó khác, vào một đêm khác. Tôi đang ở đâu? Cơn đau khiến mọi thứ trở nên thật mờ mịt. Căn phòng tối om. Có mùi gì đó khiến tôi nhớ, nhưng nhớ đến gì? Mùi chất tẩy rửa. Mùi mồ hôi. Mùi nước hoa, rất quen thuộc... không có lẽ? Tiếng bước chân đi lên cầu thang, tiếng người xì xầm, tiếng nhiều ổ khoá được mở, tôi có thể trốn ở đâu đây? và cánh cửa được mở ra. Tôi đang bò trên sàn thì đèn được bật lên khiến mắt tôi đau nhức. Giọng một phụ nữ thảng thốt, “Ôi Chúa ơi.” Tôi chửi thầm trong đầu, Không, điều này không thể là sự thực, và cửa phòng được đóng lại, rồi tôi nghe Ingrid nói, “Celia, chị về đi.” Celia phản đối. Trong lúc họ đứng tranh cãi phía bên kia cửa, tôi tuyệt vọng nhìn quanh nhưng không có đường nào để thoát. Đây chắc hẳn là căn hộ của Ingrid ở đường Clark nơi tôi chưa từng đặt chân đến. Tất cả đồ vật của cô ấy đang ở xung quanh, vây lấy tôi, chiếc ghế Eames, chiếc bàn cà phê bằng cẩm thạch có hình hạt đậu chất đầy những cuốn tạp chí thời trang, chiếc ghế sofa màu cam xấu xí mà chúng tôi thường... Tôi đảo mắt khắp nơi để tìm thứ gì đó mặc, nhưng mẩu vải duy nhất trong căn phòng chật chội này là chiếc áo choàng của người Hồi giáo có màu tím vàng đang vất vưởng trên ghế sofa. Tôi chộp lấy nó và khoác lên người, rồi ngồi phịch xuống ghế. Ingrid mở cửa bước vào. Cô ấy đứng im một hồi lâu và nhìn tôi, tôi nhìn lại cô ấy và tất cả những gì tôi có thể nghĩ là Ôi Ing, tại sao em lại đầy đoạ mình như vậy?
Ingrid trong trí nhớ của tôi là một thiên thần tóc vàng xinh đẹp cá tính, người tôi đã gặp tại bữa tiệc ở Jimbo trong ngày Quốc khánh; một Ingrid Carmichael đau khổ nhưng không thể gục ngã, người đã khoác lên mình một bộ áo giáp bằng tiền tài, sắc đẹp và sự rầu rĩ. Còn Ingrid đang đứng trước mặt tôi thì hốc hác, khô khan và mệt mỏi; cô ấy đứng nghiêng đầu nhìn tôi ngạc nhiên và khinh miệt. Có vẻ như chẳng ai trong chúng tôi biết phải nói với người kia điều gì. Cuối cùng cô ấy cởi áo khoác, ném nó lên ghế và ngồi xuống đầu bên kia của chiếc sofa. Cô ấy đang mặc quần da. Chúng khẽ phát ra tiếng rin rít khi cô ấy ngồi xuống.
“Chào Henry.”
“Chào Ingrid.”
“Anh đang làm gì ở đây?”
“Anh cũng không biết. Anh xin lỗi, anh chỉ... em biết đấy.” Tôi nhún vai. Chân tôi đau đến nỗi tôi chẳng còn bận tâm mình đang ở đâu.
“Trông anh thật thảm hại.”
“Anh đang rất đau đớn.”
“Thật buồn cười. Em cũng vậy.”
“Ý anh là đau đớn về thể xác.”
“Tại sao?” Tôi biết nếu tôi có tự nhiên bốc cháy trước mặt Ingrid, cô ấy cũng chẳng thèm bận tâm. Tôi kéo chiếc áo choàng lên, để lộ đôi chân cụt.
Ingrid không giật mình, cũng không kinh ngạc. Cô ấy không ngoảnh mặt đi chỗ khác. Khi cuối cùng cũng nhúc nhích, cô ấy nhìn vào mắt tôi, và tôi nhận ra rằng, trong số tất cả mọi người, chỉ có Ingrid là hiểu hoàn cảnh của tôi lúc này nhất. Đi trên hai con đường hoàn toàn khác biệt nhưng chúng tôi đã đến cùng một đích. Cô ấy đứng dậy và đi vào một căn phòng khác. Khi trở ra, cô ấy cầm theo chiếc hộp đựng đồ khâu vá nhỏ trên tay. Tôi thầm hi vọng. Và hi vọng của tôi được thoả mãn: Ingrid ngồi xuống, mở nắp hộp, và giống y như ngày xưa cũ, bên trong là một chiếc hộp khác đựng thuốc, bên cạnh những cái nệm kim và đê bao ngón tay.
“Anh muốn loại nào?”
“Loại có thuốc phiện.” Cô ấy nhấc lên một cái túi đựng đầy thuốc và đưa cho tôi; tôi nhìn thấy Ultram và lấy ra hai viên. Sau khi nhét chúng vào miệng, Ingrid lấy cho tôi một cốc nước và tôi nuốt chúng.
Ingrid đưa bàn tay có móng dài đỏ chót lên vuốt mái tóc vàng dài. “Anh từ đâu đến?”
“Tháng Mười hai, năm 2006. Hôm nay ngày bao nhiêu?”
Ingrid nhìn đồng hồ đeo tay của cô ấy. “Vừa qua mùng một tết. Giờ đã là ngày 2 tháng 1, năm 1994.”
Ôi không. Làm ơn đừng. “Có chuyện gì vậy?” Ingrid nói.
“Không có gì.” Hôm nay là ngày Ingrid tự kết thúc đời mình. Tôi có thể nói gì với cô ấy? Liệu tôi có thể ngăn cô ấy lại? Tôi có nên gọi cho ai đó? “Ing, anh chỉ muốn nói rằng...” tôi ngần ngại. Tôi có thể nói gì mà không đánh động cô ấy? Mà liệu có còn quan trọng? Khi cô ấy đã chết? Cho dù cô ấy đang ngồi ngay đây trước mặt tôi?
“Sao?”
Tôi đổ mồ hôi. “Chỉ là... hãy biết yêu chính mình. Đừng... anh biết em không được hạnh phúc...”
“Và đó là lỗi của ai?” Đôi môi tô son đỏ chót của cô ấy mím chặt. Tôi không đáp lại. Có phải là lỗi của tôi? Tôi không biết. Ingrid nhìn tôi chằm chằm như thể cô ấy trông đợi một câu trả lời từ tôi. Tôi quay mặt đi chỗ khác. Tôi nhìn vào bức tranh của Maholy Nagy trên tường đối diện. “Henry?” Ingrid nói. “Tại sao anh tàn nhẫn với em như vậy?”
Tôi nặng nhọc đưa mắt nhìn lại cô ấy. “Anh đã vậy sao? Anh không cố ý.”
Ingrid lắc đầu. “Anh đã chẳng bận tâm em sống hay chết.”
Ôi, Ingrid. “Anh có bận tâm. Anh không muốn em chết.”
“Anh đã không hề bận tâm. Anh đã bỏ rơi em, và không hề đến bệnh viện thăm em.” Ingrid nói như thể ngôn từ đang bóp cổ cô ấy.
“Gia đình em đã không cho anh đến. Mẹ em bảo anh hãy tránh xa em ra.”
“Dù là vậy, anh vẫn nên đến.”
Tôi thở dài. “Ingrid, bác sĩ của em bảo anh rằng anh không thể vào thăm em.”
“Em đã hỏi, họ bảo rằng anh không hề gọi điện một lần.”
“Anh đã gọi. Anh được bảo rằng em không muốn nói chuyện với anh, và bảo anh đừng bao giờ gọi điện cho em nữa.” Thuốc giảm đau đang bắt đầu ngấm. Cảm giác râm ran ở dưới chân đã lụi dần. Tôi thò tay xuống dưới tấm áo choàng và sờ vào bàn chân cụt bên trái, rồi bên phải.
“Em đã suýt chết và anh thì lặn mất tăm.”
“Anh đã nghĩ em không muốn nói chuyện với anh nữa. Làm sao anh biết được đó không phải là sự thật?”
“Anh đã kết hôn và không thèm gọi điện báo cho em biết, lại còn mời Celia đến lễ cưới để chọc tức em.”
Tôi bật cười. “Ingrid, Clare đã mời Celia. Họ là bạn, chính anh cũng không hiểu tại sao. Có lẽ vì sự khác biệt hoàn toàn đã tạo nên sự hấp dẫn giữa họ. Dù sao thì, việc đó hoàn toàn không phải vì em.”
Ingrid chẳng nói chẳng rằng. Cô ấy trắng nhợt dưới lớp trang điểm. Cô ấy đút tay vào túi áo choàng và lôi một gói English Ovals cùng bật lửa.
“Em hút thuốc từ bao giờ?” tôi hỏi. Ingrid ghét thuốc lá. Cô ấy chỉ thích cô-ca, thuốc kích thích, và mê những món đồ uống có tên thi vị. Cô ấy lôi một điếu thuốc ra khỏi bao bằng hai ngón tay có móng dài, rồi châm lửa. Tay cô ấy run rẩy. Ingrid rít một hơi dài, khói len lỏi thoát ra từ giữa đôi môi của cô ấy theo từng lọn cong cong.
“Cuộc sống mà không có đôi chân của anh như thế nào?” Ingrid hỏi tôi. “Mà chuyện gì đã xảy ra?”
“Hoại tử vì tê cóng. Anh đã ngất xỉu ở công viên Gran giữa tiết trời tháng Một.”
“Anh đi lại bằng cách nào?”
“Chủ yếu nhờ xe lăn.”
“Ồ, tệ nhỉ.”
“Phải,” tôi nói. “Rất tệ.” Chúng tôi ngồi trong yên lặng một hồi.
Ingrid hỏi, “Anh vẫn còn kết hôn chứ?”
“Phải.”
“Con cái gì không?”
“Anh có một cô con gái.”
“Ồ.” Ingrid tựa lưng vào ghế, rít thuốc và nhả ra một làn khói mỏng từ hai lỗ mũi. “Ước gì em đã có con.”
“Em đã không muốn có con, Ing.”
Cô ấy nhìn tôi, nhưng tôi không thể hiểu được cái nhìn đó. “Em luôn muốn có con. Nhưng em đã nghĩ anh không muốn có, nên em đã không nói gì.”
“Em vẫn có thể có con.”
Ingrid phá lên cười. “Thật sao? Em có con không, Henry? ở năm 2006, em có chồng, có nhà ở Winnetka và hai, ba đứa con không?”
“Không hẳn vậy.” Tôi đổi tư thế ngồi. Cơn đau đã biến mất nhưng cái vỏ của cơn đau còn sót lại, một khoảng trống nơi đáng lẽ cơn đau phải ngự trị nhưng thay vào đó lại là sự trông đợi cơn đau sẽ đến.
“Không hẳn vậy”, Ingrid lặp lại lời tôi. “Không hẳn đến mức nào? Như, ‘Không hẳn vậy, Ingrid ạ. Thực tế thì em là một bà cô không nhà không cửa’?”
“Em không phải một bà cô không nhà không cửa.”
“Vậy em sẽ không trở thành một bà lão vô gia cư. Được, tuyệt lắm.” Ingrid dập tắt thuốc lá và vắt chéo chân lên nhau. Tôi đã từng yêu đôi chân của Ingrid. Cô ấy đang đi đôi ủng cao gót. Chắc hẳn cô ấy và Celia vừa trở về từ một bữa tiệc. Ingrid nói, “Chúng ta đã loại trừ hai trường hợp tồi tệ nhất và tốt đẹp nhất: em không phải một mệnh phụ ở ngoại thành và không phải dân vô gia cư. Tiếp nào, Henry, hãy cho em thêm vài gợi ý.”
Tôi im lặng. Tôi không muốn chơi trò chơi này.
“Được rồi. Hãy chọn lựa từ nhiều đáp án vậy. Xem nào. A) Em là một vũ công thoát y trong một câu lạc bộ nhớp nháp ở đường Rush. B) Em phải vào tù vì sát hại Celia và xẻ thịt cô ấy đem cho Malcolm ăn. Nghe hay đấy. C) Em sống ở Rio del Sol với một nhà trung gian tài chính giàu có. Thế nào, Henry? Có lựa chọn nào nghe hợp lí với anh không?”
“Malcolm là ai?”
“Con chó Đức của Celia.”
“Anh cũng đoán vậy.”
Ingrid nghịch chiếc bật lửa của mình, cứ bật rồi lại tắt. “Còn đáp án D) Em đã chết thì sao?” Tôi nao núng. “Nghe có hấp dẫn với anh chút nào không?”
“Không. Không hề.”
“Thật sao? Em thích nó nhất.” Ingrid mỉm cười. Đó không phải một nụ cười quyến rũ. Nó giống một biểu hiện nhăn nhó, đau đớn, hơn là một nụ cười. “Em thích nó đến nỗi nó đã gợi ý cho em một việc hay ho.” Cô ấy đứng dậy và sải bước qua căn phòng, đi vào hành lang. Tôi có thể nghe thấy tiếng cô ấy mở, rồi đóng, ngăn kéo. Khi xuất hiện trở lại, cô ấy đưa một tay giấu sau lưng. Ingrid đứng trước mặt tôi và nói, “Ngạc nhiên chưa!” và chĩa súng vào tôi.
Nó không phải một khẩu súng lớn. Nó mỏng, có màu đen, và sáng bóng. Ingrid giữ nó ngang hông một cách thoải mái, như thể cô ấy đang tham dự một bữa tiệc cocktail. Tôi nhìn chằm chằm vào khẩu súng. Ingrid nói, “Em có thể bắn anh.”
“Phải, em có thể”, tôi nói.
“Rồi em sẽ bắn chính mình”, cô ấy nói.
“Điều đó cũng có thể xảy ra.”
“Nhưng có thể không?”
“Anh không biết. Ingrid. Em là người quyết định.”
“Thôi vòng vo đi, Henry. Hãy nói cho em biết”, Ingrid yêu cầu.
“Được rồi. Không. Nó không diễn ra như vây.” Tôi cố tỏ ra chắc chắn.
Ingrid cười ngạo nghễ. “Nếu em muốn nó diễn ra như vậy thì sao?”
“Ingrid, đưa khẩu súng cho anh.”
“Đến đây mà lấy nó.”
“Em sẽ bắn anh sao?” Ingird lắc đầu, mỉm cười. Tôi trèo ra khỏi ghế sofa, trèo xuống sàn nhà, và bò lại gần Ingrid, kéo lê chiếc áo choàng, chậm hơn bình thường vì thuốc giảm đau. Cô ấy lùi lại, chĩa khẩu súng về phía tôi. Tôi dừng lại.
“Đến đây nào Henry. Chó ngoan lắm. Chó trung thành lắm.” Ingrid gỡ chốt an toàn và bước lại gần tôi. Tôi căng thẳng. Cô ấy dí súng vào đầu tôi. Nhưng rồi Ingrid phá lên cười, và chĩa mũi súng vào thái dương của mình. “Thế này thì sao, Henry? Nó có diễn ra như thế này không?”
“Không.” Không!
Cô ấy nhăn nhó. “Anh chắc chứ, Henry?” Ingrid di chuyển khẩu súng xuống ngực. “Thế này thì sao? Đầu hay ngực, Henry?” Ingrid bước tới. Tôi có thể chạm vào cô ấy. Tôi có thể tóm lấy cô ấy... Ingrid đá vào ngực tôi và tôi ngã lăn ra sàn, ngước lên nhìn cô ấy. Ingrid cúi xuống và nhổ vào mặt tôi.
“Anh đã yêu em chứ?” Ingrid nhìn tôi hỏi.
“Có”, tôi trả lời.
“Nói dối”, Ingrid nói, rồi bóp cò.
Thứ Hai, 18/12/2006 (Clare 35, Henry 43)
CLARE: Tôi tỉnh giấc lúc nửa đêm và thấy Henry đã biến mất. Tôi hoảng hốt ngồi bật dậy. Các tình huống tồi tệ không ngừng diễn ra trong đầu tôi. Anh ấy có thể bị xe đâm, bị mắc kẹt trong một toà nhà bỏ hoang nào đó, giữa thời tiết băng giá... tôi nghe có tiếng động, có ai đó đang khóc. Có lẽ là Alba, có lẽ Henry đã đi dỗ dành con bé. Tôi bước xuống giường và đi đến phòng của Alba, nhưng con bé vẫn đang cuộn mình ngủ bên cạnh Teddy, chăn của con bé đã bị đạp xuống giường. Tôi đi theo tiếng động qua hành lang và nhìn thấy Henry đang ngồi trên sàn phòng khách, vùi mặt vào hai bàn tay mà khóc.
Tôi quỳ xuống bên cạnh anh ấy. “Có chuyện gì vây?” tôi hỏi.
Henry ngẩng mặt lên, tôi có thể nhìn thấy những giọt nước mắt đang chảy trên má của anh ấy sáng lên dưới ánh đèn đường hắt vào qua cửa sổ. “Ingrid đã chết rồi,” Henry nói.
Tôi đưa tay ôm lấy anh ấy. “Ingrid đã chết từ lâu rồi, Henry.” Tôi nói khẽ.
Henry lắc đầu. “Hàng năm, hàng phút... có gì khác nhau?” anh ấy nói. Chúng tôi ngồi trên sàn nhà trong im lặng. Cuối cùng, Henry nói, “Em nghĩ trời đã sáng chưa?”
“Có lẽ.” Ngoài trời vẫn một màu u tối. Chẳng có lấy một tiếng chim.
“Hãy đứng dậy thôi”, anh ấy nói. Tôi kéo xe lăn đến, giúp anh ấy ngồi lên và đẩy vào trong bếp. Tôi đưa áo choàng tắm cho Henry và anh ấy khó nhọc khoác lên người. Anh ấy ngồi bên bàn ăn, nhìn đăm đăm ngoài cửa sổ, vào khu vườn đang chìm trong tuyết trắng phía sau nhà. Xa xa có tiếng xe ủi tuyết đang cạo đường. Tôi bật điện, đổ cà phê vào phin lọc, đổ nước rồi bật máy pha. Tôi lấy ra hai chiếc cốc. Tôi mở tủ lạnh, nhưng khi tôi hỏi Henry muốn ăn gì, anh ấy chỉ lắc đầu. Tôi ngồi xuống đối diện Henry và anh ấy nhìn tôi. Mắt anh ấy đỏ hoe, tóc rối bù. Hai bàn tay anh ấy khẳng khiu, gương mặt trống rỗng.
“Đó là lỗi của anh”, Henry nói. “Nếu anh không ở đó...”
“Liệu anh có thể ngăn cản cô ấy?” Tôi hỏi.
“Không, anh đã cố.”
“Vậy thì đừng đổ lỗi cho chính mình nữa.”
Máy pha cà phê kêu lên những tiếng nổ nho nhỏ. Henry đưa tay xoa mặt. Anh ấy nói, “Anh đã luôn tự hỏi tại sao cô ấy không để lại đôi dòng nhắn nhủ gì.” Tôi đang định hỏi ý anh ấy là gì thì nhận ra Alba đang đứng ở cửa phòng bếp. Con bé mặc bộ áo ngủ màu hồng, đi dép lê con chuột màu xanh. Alba nheo mắt và ngáp dài trong ánh sáng chói loà của căn bếp.
“Chào bé con”, Henry nói. Alba bước lại gần và ngồi lên đùi anh ấy. “Chào buổi sáng”, Alba đáp.
“Trời chưa sáng đâu”, tôi bảo con bé. “Vẫn đang là ban đêm.”
“Tại sao bố mẹ thức giấc lúc nửa đêm ạ?” Alba ngửi ngửi. “Bố mẹ đang pha cà phê, vậy là buổi sáng rồi.”
“Ồ, là cái định nghĩa cà phê bằng buổi sáng”, Henry nói. “Có lỗ hổng trong suy luận của con rồi, con gái.”
“Sao cơ ạ?” Alba hỏi lại. Con bé ghét bị sai trong mọi vấn đề, dù là nhỏ.
“Con đang đưa ra kết luận dựa vào dữ liệu không chuẩn xác; con quên mất rằng bố mẹ nghiện cà phê, và chúng ta ra khỏi giường lúc nửa đêm chỉ để uống THÊM nhiều cà phê hơn nữa.” Anh ấy gầm gừ lên giả làm một con quỷ, hoặc có lẽ một người nghiện cà phê.
“Con muốn uống cà phê”, Alba nói. “Con cũng nghiện cà phê.” Con bé gầm gừ lại với Henry. Anh ấy nhấc con bé lên và đặt nó đứng dậy. Alba chạy vòng qua bàn về phía tôi rồi con bé ôm chầm lấy tôi và hét “GỪ!” vào tai tôi.
Tôi đứng dậy và bế con bé lên. Nó đã lớn bổng. “Gừ thì cũng đi ngủ, nhé.” Tôi bế con bé vào phòng và thả nó xuống giường, nó cười ngặt nghẽo. Đồng hồ điểm 4:16 phút. “Thấy chưa?” Tôi chỉ cho con bé. “Còn quá sớm để con có thể ra khỏi giường.” Sau một hồi cự nự, Alba cũng chui vào chăn đi ngủ, và tôi quay trở lại nhà bếp. Henry đã rót cho chúng tôi mỗi người một cốc cà phê. Tôi ngồi xuống. Trong này thật lạnh.
“Clare.”
“Vâng?”
“Sau khi anh chết...” Henry ngừng nói và nhìn đi chỗ khác, anh ấy thở sâu rồi tiếp tục. “Anh đã thu xếp mọi việc, giấy tờ, di chúc, và thư gửi mọi người, những lời nhắn nhủ tới Alba, tất cả đều nằm trong ngăn bàn của anh.” Tôi không thể tìm được lời đáp lại. Henry nhìn tôi.
“Đó là khi nào?” tôi hỏi. Henry chỉ lắc đầu. “Vài tháng? Vài tuần? Hay vài ngày nữa?”
“Anh không biết, Clare ạ.” Anh ấy biết, tôi biết anh ấy biết.
“Anh đã thấy cáo phó của mình phải không?” tôi hỏi. Henry ngần ngại rồi gật đầu. Tôi mở miệng định hỏi thêm, nhưng rồi tôi sợ.
Hàng gi ờ, hàng ngày
Thứ Sáu, 24/12/2006 (Henry 43, clare 35)
HENRY: Tôi dậy sớm, rất sớm, khi căn phòng vẫn còn chìm trong ánh sáng xanh trước lúc rạng đông. Tôi nằm yên trên giường ngắm nhìn Clare ngủ, lắng nghe tiếng thở sâu của cô ấy, nghe tiếng giao thông rải rác trên đại lộ Lincoln, nghe tiếng quạ í ới gọi nhau và tiếng lò sưởi phụt tắt. Chân tôi đau nhức nhối. Tôi nhổm người dậy để tìm lọ Vicodin trong ngăn bàn đặt đầu giường. Tôi lấy ra hai viên, tống chúng xuống cổ họng bằng một ngụm cô-ca.
Tôi thả mình trở lại bên dưới lớp chăn. Clare đang say sưa ngủ, mặt úp xuống gối, tay ôm lấy đầu. Tóc cô ấy giấu bên dưới chăn, Clare trông nhỏ hơn khi không có mái tóc đỏ của mình. Tư thế ngủ hồn nhiên của cô ấy khiến tôi nhớ lại khi cô ấy còn nhỏ. Rồi tôi gắng nhớ lại liệu tôi đã từng thấy Clare ngủ khi còn nhỏ hay chưa, và nhận ra tôi chưa từng. Tôi đã nhầm với Alba. Ánh sáng đang đổi sắc. Clare cựa mình, quay người về phía tôi. Tôi ngắm kĩ khuôn mặt của cô ấy. Khoé mắt và miệng của cô ấy đã điểm xuyết những nếp nhăn, điểm khởi đầu cho khuôn mặt của Clare ở tuổi trung niên. Tôi sẽ không bao giờ được nhìn khuôn mặt trung niên đó, tôi cay đắng nuối tiếc, khuôn mặt sẽ đi cùng Clare trong quãng đường sắp tới mà không có tôi, khuôn mặt sẽ không còn được tôi hôn lên, khuôn mặt thuộc về một thế giới mà tôi sẽ không được biết, nơi tôi chỉ còn tồn tại trong kí ức của Clare, một mối liên kết đến quá khứ bất định.
Hôm nay là ngày giỗ thứ 37 của mẹ tôi. Tôi đã không ngừng nghĩ đến bà, mong mỏi được gặp lại bà trong suốt 37 năm đó, và bố tôi đã không một giây thôi nghĩ đến bà. Nếu sự mong nhớ tha thiết có thể đưa người chết sống lại, bà sẽ là Eurydice[1] của chúng tôi, bà sẽ hồi sinh như Lady Lazarus, không ngừng trốn thoát khỏi tay tử thần, để an ủi chúng tôi. Nhưng tất cả những lời kêu than của chúng tôi cũng không thể mang lại thêm một giây cho cuộc sống của bà, không thể khiến trái tim bà đập lại thêm một nhịp, khiến lồng ngực bà phập phồng một lần thở. Điều duy nhất sự mong mỏi của tôi có thể làm là đưa tôi đến gặp bà. Còn Clare sẽ có được gì sau khi tôi chết? Làm sao tôi có thể bỏ cô ấy ở lại?
[1] Eurydice: Con gái của thần Apollo, vợ của Orpheus, người đã xuống địa ngục tìm cách tái sinh Eurydice.
Tôi nghe tiếng Alba nói chuyện trong phòng con bé. “Này”, Alba nói. “Này, Teddy? Suỵt, hãy đi ngủ đi.” Im lặng. “Bố ơi?” Tôi nhìn sang Clare xem cô ấy có bị đánh thức bởi tiếng gọi của Alba. Cô ấy vẫn ngủ say. “Bố ơi!” Tôi rón rén quay người, khẽ chui ra khỏi chăn và trườn xuống sàn. Tôi bò ra ngoài, qua hành lang và vào phòng của Alba. Con bé cười khúc khích khi nhìn thấy tôi. Tôi gầm gừ, và Alba vỗ vào đầu tôi như thể tôi là một con thú. Con bé đang ngồi trên giường, giữa đống thú nhồi bông của nó. “Nhích ra nào, Cô bé Quàng khăn đỏ.” Alba ngồi dịch vào trong. Tôi bám lấy giường rồi leo lên. Con bé cuống cuồng thu dọn những con thú nhồi bông xung quanh tôi. Tôi đưa tay ôm lấy con bé rồi tựa người vào thành, con bé giơ Teddy Xanh ra trước mặt tôi. “Cậu ấy muốn ăn kẹo dẻo.”
“Vẫn còn quá sớm để ăn kẹo dẻo, Teddy Xanh ạ. Ăn trứng chần và bánh mì nướng nhé?”
Alba nhăn mặt. Con bé nhăn cả miệng, mũi và lông mày lại. “Teddy không thích trứng đâu”, con bé nói.
“Suỵt, khẽ nào. Mẹ vẫn còn đang ngủ.”
“Dạ”, Alba thì thầm lớn tiếng. “Teddy muốn ăn Jelly-O cơ.” Tôi nghe tiếng Clare rên rỉ và bắt đầu thức dậy ở phòng bên.
“Cháo yến mạch vậy nhé?” Tôi thương thuyết. Alba cân nhắc rồi bảo, “Với đường đen được không ạ?”
“Được rồi.”
“Con có muốn tự làm không?” Tôi trườn khỏi giường.
“Có ạ. Cho con cưỡi bố nhé?”
Tôi ngần ngại. Chân tôi đang đau khủng khiếp, và Alba hơi quá lớn để làm việc này mà không khiến tôi thêm đau, nhưng tôi không thể khước từ con bé bất cứ điều gì vào lúc này. “Dĩ nhiên rồi, nhảy lên nào.” Tôi khuỵu cả hai tay, hai chân xuống sàn. Alba trèo lên lưng tôi, và chúng tôi thong dong bò vào trong bếp. Clare đang ngái ngủ đứng bên bồn rửa, nhìn cà phê nhỏ từng giọt vào bình. Tôi trườn về phía cô ấy, rúc vào đầu gối của cô ấy. Clare nắm lấy tay Alba và nhấc bổng con bé lên. Alba khúc khích cười không thôi. Tôi bò về ghế của mình. Clare mỉm cười và nói, “Bữa sáng sẽ có gì vậy, các đầu bếp?”
“Jell-O!” Alba hét inh tai.
“Hừm, Jell-O gì? Jell-O ngô?”
“Khôôông!”
“Jell-O thịt hun khói?”
“Eo ơi!” Alba ôm chầm lấy Clare, khẽ giật tóc cô ấy.
“Đau quá, đừng làm vậy, bé con. Thì Jell-O yến mạch vậy.”
“Cháo yến mạch ạ!”
“Jell-O cháo yến mạch, ngon nhỉ.” Clare lôi ra túi đường đen, sữa và hộp yến mạch. Cô ấy đặt chúng lên mặt bàn và nhìn tôi dò hỏi. “Còn anh? Jell-O trứng tráng chứ?”
“Nếu em nấu thì anh sẽ ăn.” Tôi kinh ngạc trước sự lanh lẹ của Clare, di chuyển quanh bếp như thể cô ấy là Betty Crocker, như thể cô ấy đã làm việc này hàng năm trời. Cô ấy sẽ ổn khi không có tôi, tôi tự nhủ trong lúc nhìn cô ấy, nhưng tôi biết rằng cô ấy sẽ không hề ổn. Tôi ngắm Alba trộn nước và bột lúa mạch vào với nhau, và tôi nghĩ đến Alba khi lên mười, mười lăm, rồi hai mươi tuổi. Quãng thời gian tôi ở bên họ là chưa đủ. Tôi chưa muốn đi, tôi muốn được ở đây, muốn được nhìn thấy họ và ôm họ trong lòng, tôi muốn sống...
“Bố đang khóc kìa mẹ ơi”, Alba thì thầm vào tai Clare.
“Vì bố phải ăn đồ mẹ nấu đấy”, Clare bảo con bé rồi nháy mắt với tôi, và tôi phải cười.
Đêm giao thừa, hai
Chủ Nhật, 31/12/2006 (Clare 35, Henry 43)
7 giờ 25 phút tối
CLARE: Chúng tôi sẽ tổ chức tiệc giao thừa. Lúc đầu Henry tỏ ra miễn cưỡng, nhưng giờ thì anh ấy hoàn toàn thích thú. Anh ấy đang ngồi bên cạnh bàn ăn và hướng dẫn cách tỉa hoa từ cà rốt và củ cải cho Alba. Tôi phải thừa nhận rằng tôi đã không cho anh ấy lựa chọn khác, tôi đề cập đến chuyện mở tiệc trước mặt Alba và con bé rất hứng khởi nên anh ấy chẳng thể nào khiến con bé thất vọng.
“Sẽ rất vui mà, Henry. Em sẽ mời tất cả mọi người.”
“Tất cả?” anh ấy hỏi lại, miệng mỉm cười.
“Tất cả những người chúng ta yêu mến”, tôi đính chính. Và thế là trong suốt những ngày qua tôi đã dọn dẹp nhà cửa, còn Henry và Alba nướng bánh (mặc dù mỗi mẻ họ nướng đều chui vào miệng con bé một nửa nếu chúng tôi không canh chừng). Hôm qua Charisse và tôi đã đi siêu thị để mua đồ ăn nhẹ, đủ loại rau củ, bia, rượu, champagne, món khai vị đủ màu sắc, giấy ăn với dòng chữ Chúc mừng năm mới được in vàng rực, và đĩa giấy cùng màu... Khắp nhà giờ đây có mùi như thịt viên chiên và cây thông Noel đang quắt queo nhanh chóng trong phòng khách.
Alicia đang rửa li uống rượu cho chúng tôi.
Henry ngẩng mặt lên nhìn tôi và nói, “Clare, sắp đến giờ rồi đấy. Em đi tắm đi.” Tôi liếc nhìn đồng hồ và nhận ra đúng vậy, đã đến giờ.
Tôi nhảy vào bồn tắm, gội đầu, sấy tóc, mặc quần áo lót, đi tất, xỏ vào chiếc đầm dạ hội bằng lụa màu đen, đi giày cao gót và xức một chút nước hoa, tô son, soi gương lần cuối rồi quay trở lại nhà bếp nơi Alba vẫn tinh tươm trong chiếc váy nhung màu xanh của con bé, còn Henry vẫn đang mặc chiếc áo sơ mi vải dệt màu đỏ thủng lỗ chỗ và chiếc quần jeans rách màu xanh.
“Anh không định thay đồ sao?”
“Ồ, phải rồi. Giúp anh chứ?” Tôi đẩy xe đưa anh ấy vào phòng ngủ.
“Anh muốn mặc gì?” Tôi lục ngăn tủ để tìm quần lót và tất.
“Gì cũng được. Tuỳ em chọn.” Henry đưa tay đóng cửa phòng ngủ. “Lại đây nào.”
Tôi ngừng lục lọi và nhìn Henry. Anh ấy giữ thắng xe lăn và trèo lên giường.
“Chúng ta sẽ muộn mất”, tôi nói.
“Đúng thế, vậy nên hãy nhanh làm việc chính thôi.” Giọng anh ấy thủ thỉ và đầy thuyết phục. Tôi chốt cửa phòng.
“Em vừa mới thay đồ...”
“Suỵt, thôi nào.” Anh ấy đưa tay về phía tôi, lòng tôi chùng lại, rồi tôi ngồi xuống bên cạnh anh ấy, và ý nghĩ một lần cuối vụt lên trong đầu tôi.
(8 giờ 5 phút tối)
HENRY: Chuông cửa kêu lên đúng lúc tôi đang thắt cà vạt. Clare băn khoăn hỏi, “Trông em ổn chứ?” Cô ấy trông rất đẹp, hồng hào và đáng yêu, và tôi nói với cô ấy như vậy. Chúng tôi ra khỏi phòng ngủ trong lúc Alba chạy đi mở cửa và hét toáng lên “Chào ông nội! Chào bà Kim!” Bố tôi dậm mạnh đôi ủng đang bám đầy tuyết xuống sàn rồi cúi người ôm lấy con bé. Clare hôn lên má ông. Bố tôi đưa áo khoác của mình cho Clare như để tưởng thưởng. Alba bám dính lấy Kimy và dẫn bà đi xem cây Noel trước cả khi bà kịp cất áo choàng.
“Chào con, Henry”, bố tôi mỉm cười nói, cúi người về phía tôi và bất chợt tôi nhận ra: trong buổi tối hôm nay, cuộc đời tôi sẽ tái hiện ra trước mắt. Chúng tôi đã mời tất cả những người quan trọng trong cuộc đời mình: bố, Kimy, Alicia, Gomez, Charisse, Philip, Mark, Sharon và con cái họ, Roberto, Catherine, Isabelle, Matt, Amelia, bạn trong lĩnh vực nghệ thuật của Clare, bạn đại học của tôi, bố mẹ của bạn bè Alba, môi giới của Clare, và cả Celia Attley – sau một hồi nài nỉ của Clare. Những người vắng mặt là những người không thể đến vì lí do bất khả kháng: mẹ tôi, Lucile, Ingrid... Chúa ơi, đừng mang tôi đi.
(8 giờ 20 phút tối)
CLARE: Gomez và Charisse xuất hiện như những phi công cảm tử Nhật. “Này, Nhóc thủ thư lười biếng, cậu không bao giờ dọn tuyết trên vỉa hè nhà mình hả?”
Henry vỗ tay vào trán, đáp, “Tôi biết ngay là đã quên việc gì đó mà.” Gomez ném chiếc túi đựng đầy đĩa CD vào đùi Henry rồi bỏ đi dọn vỉa hè. Charisse cười rộ và đi theo tôi vào trong bếp. Cậu ấy lôi ra một chai vodka Nga to tướng và nhét nó vào trong tủ lạnh. Chúng tôi nghe thấy tiếng Gomez đang ông ổng hát “Let it snow” trong lúc anh ấy dọn tuyết dọc căn nhà.
“Lũ trẻ đâu hết rồi?” tôi hỏi Charisse.
“Bọn tớ gửi chúng ở nhà bà ngoại. Tớ nghĩ chúng sẽ thích ở bên bà ngoại trong đêm giao thừa hơn. Chưa kể, cậu biết đấy, bọn tớ muốn chịu tàn tích của rượu chè trong riêng tư.” Tôi chưa bao giờ nghĩ nhiều đến việc đó; tôi chưa từng say kể từ khi Alba tra đời. Alba chạy ùa vào trong bếp và ôm chầm lấy Charisse. “Xin chào, cô bé! Cô chú có quà Giáng sinh cho cháu đây!”
Alba nhìn tôi dò xét. “Mở nó ra đi.” Đó là một bộ đồ cắt móng tay nhỏ xíu, đi kèm với lọ sơn móng tay. Alba kêu lên sung sướng. Tôi vỗ nhẹ vào người con bé, và mở nó ra.
“Cảm ơn cô Charisse.”
“Không có gì, Alba.”
“Con đem khoe với bố đi”, tôi bảo con bé, và nó liền chạy về phía phòng khách. Tôi thò đầu vào hành lang để nhìn Alba hớn hở chìa món quà cho Henry xem, anh ấy xoè bàn tay ra cho con bé như thể đang trải qua cơn phẫu thuật rút móng. “Món quà tuyệt lắm”, tôi bảo Charisse.
Cậu ấy mỉm cười, “Đó là ước mơ hồi nhỏ của tớ. Tớ đã muốn trở thành một chuyên gia chăm sóc sắc đẹp khi lớn lên.”
Tôi cười, “Nhưng cậu không đủ khả năng để biến nó trở thành sự thật, nên thay vào đó cậu đã trở thành một nghệ sĩ.”
“Tớ đã gặp Gomez và nhận ra rằng, không ai có thể lật đổ hệ thống điều hành coi nhẹ nữ quyền của giai cấp tư bản bằng việc uốn tóc.”
“Dĩ nhiên là chúng ta cũng đã không thực sự lật đổ nó bằng việc bán các tác phẩm nghệ thuật cho nó.”
“Nói thì phải ngẫm đến mình, cô bạn thân mến. Cậu thì chỉ biết đam mê cái đẹp.”
“Thật áy náy quá.” Chúng tôi thong thả đi vào phòng ăn rồi Charisse bắt đầu chất đầy đồ ăn lên đĩa của mình. “Gần đây cậu đang làm gì?” tôi hỏi Charisse.
“Nghệ thuật virus máy tính.”
“Ồ, chẳng phải như vậy là phạm pháp sao?”
“Không hẳn, tớ chỉ thiết kế rồi vẽ chúng lên phông nền và đem đi triển lãm. Tớ không thực sự phát tán chúng.”
“Nhưng có thể sẽ có người phát tán.”
“Phải.” Charisse cười ranh mãnh. “Tớ hi vọng họ sẽ làm vậy. Gomez cứ không ngừng chế giễu, nhưng một vài trong số những bức tranh nhỏ nhoi này đủ sức gây nhiều phiền toái cho Ngân hàng Thế giới và Bill Gates cùng những kẻ khốn làm ra máy ATM.”
“Dù sao cũng chúc cậu may mắn. Khi nào triển lãm?”
“Tháng Năm. Tớ sẽ gửi thư mời cho cậu.”
“Khi nào nhận được nó, tớ sẽ biết đường để chuyển đổi tài sản của mình sang vàng khối và nhét chúng vào bình nước đóng chai.”
Charisse cười. Catheine và Alicia vừa xuất hiện, nên chúng tôi ngừng nói chuyện về sự hỗn loạn của thế giới qua nghệ thuật và chuyển sang khen ngợi đầm dạ hội của nhau.
(8 giờ 50 phút tối)
HENRY: Khắp nhà chật ních những người thân thiết và gần gũi nhất của chúng tôi, một vài trong số họ tôi đã không được gặp kể từ sau ca phẫu thuật. Leah Jacobs – người môi giới của Clare – rất lịch thiệp và tử tế, nhưng tôi khó có thể chịu được sự thương hại trong ánh mắt của cô ấy. Celia khiến tôi bất ngờ khi lại gần tôi và chìa tay ra. Tôi nhận lấy nó, và cô ấy nói, “Tôi rất tiếc khi thấy cậu như thế này.”
“Còn cô trông rất tuyệt”, tôi nói, và đó là sự thật. Tóc cô ấy vén cao, quần áo độc màu xanh lấp lánh.
Celia nói bằng giọng ngọt như bông đường của cô ấy, “Tôi thích cậu khi cậu còn là một kẻ chẳng ra gì hơn, tôi dễ dàng ghét cái thân hình mảnh khảnh trắng trẻo của cậu hơn.”
Tôi cười, “Ôi, những ngày tháng tươi đẹp.”
Celia lục trong túi xách và lôi ra một bức ảnh. “Tôi tìm thấy cái này trong đống đồ của Ingrid đã lâu. Tôi nghĩ có lẽ Clare sẽ thích nó.” Cô ấy đưa cho tôi bức ảnh. Đó là ảnh của tôi, có lẽ khoảng năm 1990. Tóc tôi để dài và tôi đang cười, cởi trần đứng trên bãi biển đường Cây Sồi. Đó là một bức ảnh đẹp. Tôi không nhớ Ingrid đã chụp nó khi nào, nhưng dù sao thì, hầu hết quãng thời gian của tôi bên Ing giờ đây chỉ còn là một khoảng trống.
“Phải, tôi cược rằng cô ấy sẽ rất thích nó. Memento mori[1].” Tôi trả lại bức ảnh cho Celia.
[1] Memeto mori: một câu thành ngữ tiếng Latin, có nghĩa “Hãy nhớ rằng ngươi sẽ chết”, không ai có thể sống mãi.
Cô ấy nhìn tôi sắc lẹm, “Cậu chưa có chết, Henry DeTamble ạ.”
“Không lâu nữa đậu, Celia.”
Celia cười. “Vậy thì nếu cậu xuống địa ngục trước tôi, nhớ giữ cho tôi một chỗ bên cạnh Ingrid.” Cô ấy quay đi tìm Clare.
(9 giờ 45 phút tối)
CLARE: Lũ trẻ đã chạy quanh không ngừng và đã ăn quá nhiều nên giờ chúng trở nên xộc xệch và buồn ngủ. Tôi gặp Colin Kendrick trong hành lang và hỏi cậu bé có muốn đi ngủ không; cậu bé long trọng nói với tôi rằng cậu bé muốn được thức cùng người lớn. Tôi xúc động trước sự lịch thiệp và vẻ đẹp của tuổi mười bốn, vẻ ngượng ngùng của cậu bé trước mặt tôi, cho dù cậu bé đã biết tôi trong suốt cuộc đời mình. Ngược lại, Alba và Nadia Kendrick không được tự chủ bằng. “Mẹ”, Alba nhõng nhẽo, “mẹ đã nói bọn con có thể thức cùng mà?”
“Phải rồi, nhưng con không muốn chợp mắt một chút sao? Mẹ sẽ đánh thức con dậy khi giao thừa đến.”
“Không chịu đâu!” Kendrick đang đứng nghe cuộc thương thuyết, tôi nhún vai với ông ấy, và ông ấy bật cười.
“Thật là cặp đôi bất kham. Được rồi, các cô gái, hãy vào phòng Alba và yên lặng chơi trong giây lát đi.” Chúng vùng vằng bỏ đi. Tôi chắc rằng chỉ sau vài phút, chúng sẽ lại vui vẻ chơi với nhau.
“Rất vui khi được gặp lại cô, Clare”, Kendrick nói trong lúc Alicia thong thả bước tới gần.
“Clare, trông bố kìa.” Tôi nhìn theo ánh mắt của Alicia và nhận ra bố tôi đang tán tỉnh Isabelle. “Ai đấy?”
“Ôi trời”, tôi cười lớn. “Đó là Isabelle Berk.” Tôi giải thích quan điểm và xu hướng tình dục hà khắc của Isabelle cho Alicia biết. Chúng tôi cười ngặt nghẽo đến thở không ra hơi. “Hoàn hảo, tuyệt vời. Ôi, chết mất”, Alicia nói trong nước mắt.
Richard đang bước lại gần thì khựng lại trước sự kích động của chúng tôi. “Có chuyện gì thú vị vậy, các quý cô xinh đẹp?”
Chúng tôi lắc đầu, vẫn không ngừng khúc khích. “Họ đang mỉa mai nghi lễ chọn bạn tình của đấng sinh thành đầy uy quyền của bọn họ”, Kendrick nói. Richard gật đầu ngơ ngác, và hỏi Alicia về lịch biểu diễn mùa xuân của con bé. Họ vừa đi về phía nhà bếp vừa trò chuyện về Bartok. Kendrick vẫn đang đứng cạnh tôi, đợi để nói về điều tôi không muốn nghe. Tôi định cáo lui thì ông ấy đặt tay lên tay tôi.
“Đợi đã, Clare...” Tôi đợi. “Tôi rất xin lỗi”, ông ấy nói.
“Không sao đâu, David.” Chúng tôi nhìn nhau đăm đăm trong giây lát. Rồi Kendrick lắc đầu và mò mẫm tìm thuốc. “Nếu khi nào cô muốn ghé qua phòng thí nghiệm, tôi sẽ chỉ cho cô xem những gì chúng tôi đang làm cho Alba...” Tôi đảo mắt khắp nơi tìm Henry. Gomez đang dạy Sharon điệu rumba trong phòng khách. Mọi người đều đang vui vẻ, chỉ có Henry là chẳng thấy tăm hơi. Ít nhất đã 45 phút tôi chưa nhìn thấy anh ấy. Tôi nóng lòng muốn tìm anh ấy, muốn chắc chắn rằng anh ấy vẫn ổn, rằng anh ấy vẫn đang ở đây. “Xin thứ lỗi”, tôi nói với Kendrick, người có vẻ như vẫn đang muốn tiếp tục cuộc trò chuyện. “Để lần khác nhé, khi yên tĩnh hơn.” Ông ấy gật đầu. Dù sao thì Nancy Kendrick cũng đang xuất hiện trở lại với Colin lẽo đẽo theo sau, khiến cuộc trò chuyện là bất khả thi. Họ hồ hởi lao vào chủ đề khúc côn cầu trên băng, còn tôi lẻn trốn.
(9 giờ 48 phút tối)
HENRY: Trong nhà đang dần nóng lên, tôi cần phải ra ngoài hóng gió một lát nên đã đẩy xe ra hiên nhà ngồi. Tôi vẫn nghe thấy tiếng mọi người trò chuyện trong phòng khách. Tuyết đang rơi nhanh và dày hơn, che phủ khắp các bụi cây và xe cộ, làm mềm những đường nét cứng cáp của chúng và ngăn chặn âm thanh của giao thông trên các con lộ. Một đêm tuyệt đẹp. Tôi mở cửa chắn giữa hiên nhà và phòng khách.
“Này, Gomez.”
Gomez phi nước kiệu chạy lại và thò đầu ra cửa, “Sao?”
“Ra ngoài này một chút đi.”
“Lạnh lắm.”
“Đi nào, lão già hom hem yếu đuối.”
Có gì đó trong ngữ điệu của tôi đã làm Gomez cắn câu. “Được rồi, được rồi. Chờ chút coi.” Cậu ấy biến mất và quay trở lại sau vài phút, áo choàng khoác trên người, tay cầm áo của tôi. Trong lúc tôi loay hoay mặc áo, Gomez chìa chai rượu đút túi của cậu ấy về phía tôi.
“Ồ, không, cảm ơn cậu.”
“Là Vodka. Cho ấm người.”
“Phản ứng với thuốc phiện.”
“Ồ, phải. Đãng trí làm sao.” Gomez đẩy tôi qua phòng khách. Khi ra đến đầu bậc thềm, cậu ấy nhấc bổng tôi lên, và cõng tôi trên lưng như một đứa trẻ, như một con khỉ, rồi chúng tôi bước qua cửa chính, không khí lạnh như một lớp vỏ cứng bọc lên người. Tôi có thể ngửi thấy mùi rượu trong mồ hôi của Gomez. Đâu đó ngoài kia, đằng sau ánh sáng chói loà hào nhoáng của Chicago, những ngôi sao đang trú ngụ trên bầu trời.
“Này chiến hữu.”
“Hử?”
“Cảm ơn cậu về mọi chuyện. Cậu đã là một người bạn tuyệt vời...” Tôi không thể nhìn thấy mặt Gomez, nhưng tôi có thể cảm nhận được cậu ấy đang cứng người lại bên dưới lớp quần áo.
“Cậu đang muốn nói gì?”
“Nữ thần báo tử của tớ đã cất tiếng hát rồi, Gomez. Thời gian đã hết. Cuộc chơi đã tàn.”
“Khi nào?”
“Sớm thôi.”
“Sớm đến mức nào?”
“Tớ không biết”, tôi nói dối. Rất, rất sớm thôi. “Tớ chỉ muốn nói rằng... tớ biết đôi khi tớ đã cư xử như một thằng khốn”, (Gomez bật cười) “nhưng chúng ta đã có những khoảng thời gian vui vẻ”, (tôi ngừng lại vì đang chực khóc) “rất vui vẻ”, (và chúng tôi đứng đó, hai người đàn ông ăn nói vụng về, hơi thở đóng băng thành những luồng khói trắng trước mặt, tất cả những lời muốn nói bị bỏ lại không thể nói ra) và cuối cùng tôi nói, “Hãy vào nhà thôi.” Trong lúc nhẹ nhàng đặt tôi xuống xe lăn, Gomez ôm lấy tôi trong giây lát, rồi nặng nề bước đi mà không ngoảnh lại.
(10 giờ 15 phút tối)
CLARE: Henry không có trong phòng khách, nơi mọi người đang tụm nhau lại và nhảy, theo nhiều phong cách khác lạ, theo giai điệu của Squirrel Nut Zippers. Charisse và Matt đang nhảy gì đó trông như cha-cha, còn Roberto đang khiêu vũ khá tinh tế cùng Kimy, người di chuyển nhẹ nhàng nhưng vững chãi. Gomez đã bỏ rơi Sharon để nhảy cùng Catherine, người đang kêu oai oái khi anh ấy xoay cô vòng vòng và cười sặc sụa khi anh ấy dừng lại để châm thuốc.
Henry không có trong bếp, nơi đang bị chiếm dụng bởi Raoul, James, Lourdes và số còn lại của những người bạn hoạ sĩ của tôi. Họ đang tiêu khiển cho nhau bằng các câu chuyện về những điều tồi tệ mà các nhà môi giới nghệ thuật làm với nghệ sĩ và ngược lại. Lourdes đang kể chuyện về cái lỗ mà tác phẩm của Ed Kienholtz đã để lại trên chiếc bàn đắt tiền của người môi giới của anh ta. Họ hùa nhau cười phá lên thích thú. “Đừng để Leah nghe được những gì cậu nói”, tôi chòng ghẹo. “Leah đâu rồi?” James lên tiếng. “Tôi cược rằng cô ấy có nhiều chuyện thú vị để kể...” Nói đoạn James bỏ đi tìm người môi giới của tôi, người đang uống cognac với Mark ở cầu thang.
Ben đang tự pha cho mình một cốc trà. Anh ấy lôi ra chiếc túi đựng đủ loại thảo dược bên trong, rồi cẩn thận đo số lượng đổ vào trong túi lọc và nhúng nó vào cốc nước nóng. “Anh có thấy Henry đâu không?” tôi hỏi.
“Có, tôi vừa nói chuyện với cậu ấy. Cậu ấy đang ở hiên trước.” Ben lén nhìn tôi. “Tôi khá lo lắng về Henry. Cậu ấy có vẻ rất buồn. Cậu ấy có vẻ...” Ben dừng lại và khua tay ngụ ý có lẽ tôi nhầm “cậu ấy khiến tôi nghĩ đến thái độ của một số bệnh nhân cũ, khi họ biết mình không còn sống được bao lâu nữa...” Ruột gan tôi thắt lại.
“Anh ấy đã trở nên khá buồn rầu kể từ khi đôi chân không còn...”
“Tôi biết. Nhưng cậu ấy nói chuyện như thể đang chuẩn bị bước lên chuyến tàu sắp rời bến. Cậu ấy nói với tôi...” Ben hạ giọng thủ thỉ, khiến tôi khó có thể nghe rõ anh ấy nói gì. “Cậu ấy nói với tôi rằng cậu ấy rất quý tôi, và cảm ơn tôi... Ý tôi là, người ta, đàn ông, không nói những điều như vậy trừ khi họ không còn sống được bao lâu nữa.” Mắt Ben mọng nước sau cặp kính cận. Tôi quàng tay ôm lấy anh ấy, và chúng tôi đứng như vậy trong giây lát, hai tay tôi giữ lấy thân hình rũ rượi của Ben. Mọi người đang trò chuyện xung quanh chúng tôi, ngó lơ chúng tôi. “Tôi không muốn sống lâu hơn bất kì ai tôi biết”, Ben nói. “Chúa ạ, sau khi uống cái thứ khủng khiếp này và sống dặt dẹo ốm yếu suốt 15 năm, tôi cứ nghĩ tôi đã có được cái quyền tụ họp tất cả mọi người xung quanh quan tài của tôi và nói, ‘Cậu ấy đã tranh đấu cho đến hơi thở cuối cùng’, hay điều gì tương tự. Tôi đã hi vọng Henry sẽ ở đó và trích lời Donne, ‘Hỡi Tử thần, đừng có kiêu ngạo, cái thằng khốn nhà ngươi’. Và đó sẽ là một tang lễ xúc động.”
Tôi bật cười. “Nếu Henry không thể có mặt, tôi sẽ thay anh ấy làm việc đó. Tôi sẽ bắt chước một Henry ác khẩu.” Tôi nhướn một bên chân mày, hất cao cằm, và hạ giọng: “Một giấc ngủ ngắn trôi qua, ta muôn đời tỉnh giấc, và Tử thần sẽ chỉ biết ngồi trong bếp lúc ba giờ sáng trong chiếc quần đùi của hắn và chơi ô chữ tuần trước...” Ben phì cười. Tôi hôn lên gò má nhẵn thín xanh xao của anh ấy rồi bước đi.
Henry đang ngồi một mình ngoài mái hiên trong bóng tối, nhìn tuyết rơi. Tôi đã không ngó ra ngoài cửa sổ cả ngày nay, nên giờ tôi mới nhận ra tuyết đã rơi nặng hạt trong hàng giờ đồng hồ. Máy ủi tuyết đang ì ạch lăn trên đại lộ Lincoln, và những người hàng xóm của chúng tôi đang cặm cụi xúc tuyết trên vỉa hè nhà họ. Mặc dù mái hiên được vây kín nhưng vẫn thật lạnh.
“Hãy vào nhà nhé”, tôi nói. Tôi đứng bên cạnh Henry, ngắm một chú chó chạy tung tăng trên tuyết bên kia đường. Henry đưa tay ôm lấy tôi và dựa đầu vào hông tôi.
“Anh ước gì chúng ta có thể khiến thời gian ngừng lại giây phút này”, anh ấy nói. Tôi đưa tay vuốt tóc anh ấy. Chúng khô cứng và dày hơn trước, khi chúng chưa điểm bạc.
“Clare”, anh ấy nói.
“Henry.”
“Đã đến lúc...” anh ấy ngừng lại.
“Sao cơ?”
“Đã... Anh sắp...”
“Ôi Chúa ơi.” Tôi ngồi xuống trường kỉ, đối mặt với Henry. “Nhưng... đừng. Hãy ở lại với em.” Tôi nắm chặt đôi bàn tay của anh ấy.
“Đó là sự đã rồi. Nào, hãy để anh được ngồi gần em.” Anh ấy đu người khỏi xe lăn và ngồi xuống trường kỉ. Chúng tôi nằm xuống trên tấm vải lạnh tái tê. Tôi run rẩy dưới lớp vải mỏng tang của chiếc đầm dạ vũ. Trong nhà, mọi người vẫn đang cười nói và nhảy múa. Henry đưa tay ôm lấy tôi, giữ ấm cho tôi.
“Tại sao anh không nói với em? Tại sao anh để em mời tất cả những người này đến?” Tôi không muốn nổi giận, nhưng không khỏi bộc phát.
“Anh không muốn em ở một mình... sau khi anh chết. Và anh cũng muốn được nói lời tạm biệt với tất cả mọi người. Tối nay là một đêm tuyệt diệu, là một lời chú tụng cuối...” Chúng tôi nằm đó trong im lặng một hồi. Tuyết cũng im lặng rơi.
“Mấy giờ rồi?”
Tôi nhìn đồng hồ. “Hơn 11 giờ một chút.” Ôi Chúa ơi, Henry kéo tấm chăn từ chiếc ghế bên cạnh, và chúng tôi choàng nó lên người nhau. Tôi không thể tin được điều này. Tôi đã biết giây phút này sẽ đến, sớm hay muộn, nhưng giờ thì nó thực sự đã đến, và chúng tôi chỉ nằm đây, chờ đợi...
“Ôi, tại sao chúng ta không thể làm được điều gì đó?” Tôi thì thầm vào tai Henry.
“Clare...” Hai tay Henry ôm chặt lấy tôi. Tôi nhắm mắt lại.
“Hãy ngăn nó, hãy khước từ nó khỏi diễn ra. Hãy thay đổi nó!”
“Ôi, Clare.” Henry thổn thức, tôi ngước lên nhìn anh ấy. Mắt anh ấy loé lên những giọt nước mắt trong ánh sáng phản chiếu từ tuyết. Tôi đặt má lên vai Henry. Anh ấy vuốt tóc tôi. Chúng tôi nằm đó, tưởng chừng như cả thế kỉ đã trôi qua. Henry đổ mồ hôi. Tôi đưa tay lên má anh ấy và nhận ra anh ấy đang nóng bừng lên vì cơn sốt.
“Mấy giờ rồi?”
“Đã gần nửa đêm.”
“Anh sợ.” Tôi nắm chặt lấy tay Henry, kẹp chặt chân anh ấy. Thật khó để tin rằng Henry rất cứng cỏi, người đàn ông của cuộc đời tôi, Henry trong thân thể hữu hình mà tôi đang ghì chặt lấy bằng tất cả sức mạnh của mình, lại có thể biến mất.
“Hôn anh đi!”
Tôi hôn Henry, và rồi tôi còn lại một mình dưới tấm chăn, trên chiếc ghế trường kỉ trong mái hiên lạnh lẽo. Những bông tuyết vẫn rơi đều đặn. Trong nhà, tiếng nhạc đã ngừng chơi và tôi nghe Gomez nói, “Mười! Chín! Tám” và mọi người đồng thanh hùa theo, “Bảy! Sáu! Năm! Bốn! Ba! Hai! Một! Chúc mừng năm mới!” và tiếng nắp chai champagne được mở ra, rồi mọi người lại bắt đầu trò chuyện cùng một lượt, và có ai đó nói, “Henry và Clare đâu rồi?” Đâu đó ngoài kia có người đốt pháo hoa. Tôi đưa tay ôm mặt và chờ đợi.
Luận thuyết của nỗi khát khao
Bốn mươi ba năm cuộc đời anh. Cái kết thời gian bé nhỏ.
Thời gian của anh - người đã nhìn thấy sự bất tận qua vô vàn các vết nứt của lớp vỏ trơ trụi của vạn vật, và chết bởi nó.
–– A.S. Byatt, Chiếm hữu
Cỏ chậm rãi bước theo, cứ từ từ tiến tới,
như thể có điều gì đó ngáng đường;
ấy vậy mà: cũng như thể một khi vượt qua nó,
cô sẽ không còn phải bước thêm nữa, và cô sẽ giang cánh bay.
–– Trích Mù
Rainer Maria Rilke
Thứ Bảy, 27/10 – Thứ Hai, 1/1/2007 (Henry 43, Clare 35)
HENRY: Bầu trời trơ trụi và tôi đang rơi xuống bãi cỏ cao khô ráo, hãy đến nhanh đi, và mặc dù tôi cố ngồi im không động đậy, tiếng kêu răng rắc của cây súng trường vang lên từ xa nghe có vẻ chẳng liên quan gì đến tôi, nhưng không: tôi ngã lăn ra đất, tôi nhìn xuống cái bụng đang mở ra như quả lựu của mình, một món canh nội tạng và máu đựng trong cái bát của thân thể tôi; không đau chút nào. Không lẽ? Có ai đó đang chạy lại. Tất cả những gì tôi muốn nhìn thấy là Clare trước khi... trước khi... Tôi gọi to tên cô ấy, Clare, Clare!
Và Clare cúi xuống nhìn tôi, thổn thức khóc, còn Alba thì thầm, “Bố ơi...”
“Mãi mãi...”
“Henry...”
“Yêu em...”
“Ôi Chúa ơi, Chúa ơi...”
“Suốt đời...”
“Không!”
“Suốt kiếp...”
“Henry!”
CLARE: Phòng khách chìm trong yên lặng. Mọi người đứng yên không động đậy, đông cứng, nhìn xuống chúng tôi. Billie Holiday đang hát, rồi ai đó tắt đầu máy và sự im lặng bao trùm. Tôi ngồi trên sàn ôm chặt Henry. Alba đang quỳ bên cạnh anh ấy, thì thầm vào tai và lắc mạnh. Da Henry vẫn còn ấm, mắt anh ấy vẫn mở đang nhìn xuyên qua tôi, anh ấy nặng trĩu trên tay tôi, rất nặng, làn da xanh xao của anh ấy đang dần biến mất, màu đỏ chồm lên ngự trị, thân thể bị xé thủng đang mở ra thế giới bí mật của máu. Tôi ẵm Henry vào lòng. Có máu dính ở một bên mép của anh ấy. Tôi chùi nó đi. Pháo hoa đang được bắn lên ở đâu đó gần đây. Gomez nói, “Có lẽ chúng ta nên gọi cảnh sát.”
Biệt ly
Thứ Sáu, 2/2/2007 (Clare 35)
CLARE: Tôi ngủ suốt ngày. Tiếng động vang lên quanh nhà: tiếng xe rác chạy trong hẻm, tiếng mưa, tiếng những ngọn cây gõ cửa phòng ngủ của tôi. Tôi ngủ. Tôi sống trong giấc ngủ triền miên, muốn có nó, tận dụng nó, và xua đuổi những giấc mơ, khước từ, cự tuyệt. Giấc ngủ đã trở thành người bạn tình, sự chối bỏ, liều thuốc mê và sự lãng quên của tôi. Điện thoại đổ chuông rồi lại đổ chuông. Tôi đã tắt hộp thư thoại có tiếng trả lời của Henry. Đang là buổi trưa, đang là đêm tối, và đang là bình minh. Mọi thứ chỉ còn xoay quanh chiếc giường này, giấc ngủ bất tận biến mọi ngày vào một ngày, khiến thời gian ngừng lại, kéo giãn và co rút thời gian cho đến khi nó trở nên vô nghĩa.
Có đôi lúc giấc ngủ bỏ rơi tôi, và tôi phải giả vờ như đang ở trong nó, giống như những lần Etta vẫn đến đánh thức tôi dậy đi học. Tôi thở chậm và sâu. Tôi khiến đôi mắt mình bất động bên dưới hai mi, tôi khiến tâm trí tôi bất động, và không lâu sau giấc ngủ sẽ nhìn thấy bản sao hoàn hảo của chính nó và đến hoà làm một.
Có đôi lúc tôi thức dậy và với tay sang Henry. Giấc ngủ xoá hết mọi sự khác biệt: xưa và nay; sự sống và cái chết. Tôi không còn đói khát, không còn những sự phù du hão huyền rỗng tuếch, không còn bận tâm. Sáng nay tôi liếc thấy khuôn mặt mình trong gương khi vào nhà vệ sinh. Tôi gầy hốc hác, làn da nhợt nhạt tựa giấy, mắt thâm quầng và tóc rối bù. Tôi trông như đã chết. Tôi chẳng còn tha thiết điều gì.
Kimy ngồi cuối chân giường. Bà nói, “Clare? Alba đã đi học về... Cháu có muốn để nó vào một lát không?” Tôi giả vờ như đang ngủ. Bàn tay nhỏ nhắn của Alba vuốt má tôi. Nước mắt lọt qua khoé mắt tôi. Alba đặt thứ gì đó, ba-lô của con bé? Hay hộp đàn violon? xuống sàn nhà và Kim nói, “Cởi giày ra đã, Alba”, rồi Alba trèo lên giường với tôi. Con bé quàng tay tôi qua người nó, gối đầu bên dưới cằm tôi. tôi thở dài và mở mắt. Alba vờ như đang ngủ. Tôi nhìn đăm đăm vào đôi lông mi đen dài, vào chiếc miệng rộng và làn da trắng của con bé; con bé đang thở từ tốn, cẩn thận, nó bám lấy hông tôi bằng bàn tay mạnh mẽ, con bé có mùi bút chì mới gọt, mùi nhựa bôi dây đàn và mùi xà phòng. Tôi hôn lên đầu nó. Alba mở mắt và bóng dáng Henry trong con bé khiến tôi gần như không thể đương đầu. Kimy đứng dậy đi ra khỏi phòng.
Hãy mở ra sau khi anh mất
Ngày 10/12/2006
Clare thân yêu,
Trong lúc viết những dòng chữ này, anh đang ngồi ở chiếc bàn trong căn phòng ngủ cuối nhà và nhìn ra xưởng vẽ của em bên kia khu vườn đầy tuyết xanh của trời đêm, mọi vật trơn bóng và giòn giã trong băng tuyết, thật tĩnh lặng. Đó là một trong những buổi tối khi cái lạnh của vạn vật dường như khiến thời gian chậm lại, như điểm giữa của chiếc đồng hồ cát nơi thời gian chảy qua từ tốn. Anh có cảm giác, rất giống với những khi anh sắp hết thời gian nhưng hầu như không bao giờ ngược lại, rằng anh đang trôi bồng bềnh trong dòng thời gian, lênh đênh thư thái trên bề mặt của nó như một phụ nữ phì nhiêu đang bơi lội. Có gì đó thúc giục anh, trong buổi tối ở nhà một mình này (em đang đi dự buổi tiệc độc tấu của Alicia ở nhà thờ thánh Lucy) phải viết cho em một lá thư. Bỗng nhiên anh muốn để lại thứ gì đó, sau khi anh mất. Anh nghĩ rằng thời gian còn lại của mình đang dần cạn kiệt. Anh cảm thấy như thể năng lượng, niềm vui thú, sự duy trì dự trữ của mình đang rất mong manh và nhỏ bé. Anh không nghĩ mình có thể tiếp tục được lâu nữa. Anh biết rằng em hiểu.
Nếu em đang đọc những dòng chữ này, thì chắc hẳn anh đã chết. (Anh nói chắc hẳn, vì chúng ta chẳng bao giờ biết được chuyện gì sẽ xảy ra; sẽ là ngớ ngẩn và tự coi trọng bản thân thái quá nếu vạch định cái chết của ai đó như một sự việc tuyệt đối.) về phần mình, anh hi vọng nó sẽ đơn giản, nhanh chóng và rõ ràng. Anh hi vọng rằng mình sẽ không khiến mọi chuyện trở nên om xòm. Anh xin lỗi. (Những lời này nghe như một bức thư tuyệt mệnh. Thật lạ.) nhưng em biết rằng nếu có thể ở lại, nếu anh có thể lựa chọn tiếp tục sống, anh sẽ bấu víu vào từng giây phút. Cái chết này, bất kể nó là gì, em biết nó đã tự tìm đến anh và mang anh đi như một đứa trẻ bị bắt bởi những con yêu tinh.
Clare, anh muốn nói với em một lần nữa, rằng anh yêu em. Tình yêu của chúng ta đã như một sợi chỉ dẫn lối qua mê hồn trận, như tấm lưới chắn bên dưới người đu dây, là điều duy nhất có thực trong cuộc sống kì lạ này của anh để anh tin tưởng. Đêm nay anh cảm thấy tình yêu của anh dành cho em hiện hữu trong thế giới này nhiều hơn cả bản thân mình, như thể nó sẽ nán lại và vây quanh em, giữ lấy em và ôm em vào lòng sau khi anh đi mất.
Anh ghét phải nghĩ đến việc để em phải chờ đợi. Anh biết em đã đợi anh cả cuộc đời này, luôn tự hỏi con đường của sự chờ đợi này còn kéo dài đến bao lâu. Mười phút, mười ngày. Một tháng. Anh thật là một ông chồng vô dụng, chẳng thể cậy nhờ, còn em, Clare, như một người thuỷ thủ, như Odysseus đơn độc và bị vùi dập bởi những con sóng lớn, bởi những trái ngang và đôi khi chỉ như một món đồ chơi của Thượng đế. Hãy vì anh, Clare. Sau khi anh chết, hãy thôi chờ đợi, hãy tự do, hãy giải phóng mình khỏi anh. Hãy đặt anh vào sâu thẳm trong em và tiến vào thế giới ngoài kia mà sống. Hãy yêu thế giới ngoài kia và yêu chính em trong nó, hãy đi qua nó như thể nó chẳng mang lại trở ngại gì cho em, như thể thế giới là một phần tự nhiên của em. Anh đã mang đến cho em một cuộc sống vội vã bất định. Anh không có ý nói rằng em đã không sống. Em đã tạo ra những điều tuyệt diệu và ý nghĩa, trong các tác phẩm của em, trong Alba, con bé thật không lời nào tả xiết; và đối với anh, đối với anh, em là tất cả.
Sau khi mẹ anh mất, bố anh đã không còn nhựa sống. Chắc hẳn bà sẽ rất buồn nếu biết được. Mọi phút trong cuộc sống của bố anh kể từ đó đã nhuốm màu u tối vì sự ra đi của mẹ, mọi hành động của ông đã thiếu chiều kích vì bà không còn ở đó để làm chuẩn mực. Khi còn trẻ, anh đã không hiểu, nhưng giờ, giờ thì anh đã hiểu, sự biệt li có thể theo ta như một tổn thương vĩnh cửu, như một con chim đen.
Nếu anh phải sống mà không có em, anh biết rằng mình sẽ không thể chịu nổi. Anh có một giấc mơ, anh nhìn thấy em bước đi vững vàng, mái tóc em long lanh dưới ánh nắng. Tuy chỉ là một giấc mộng, nhưng nó đã gắn chặt vào tâm trí anh, anh luôn muốn khắc hoạ hình ảnh đó, và anh hi vọng rằng nó sẽ trở thành sự thật.
Clare, còn một điều cuối cùng mà anh đã không dám nói với em, vì anh sợ rằng nếu anh nói ra nó sẽ không thể trở thành sự thật (anh biết, thật ngớ ngẩn phải không?) và bởi vì anh vừa không ngừng khuyên em hãy thôi chờ đợi và điều này có thể sẽ là nguyên nhân khiến em phải chờ đợi dài hơn tất cả những lần chờ đợi trước đây. Nhưng anh sẽ nói, phòng khi em cần điều gì đó giúp em bước tiếp, sau khi anh chết.
Mùa hè trước, khi anh đang ngồi trong phòng đợi của Kendrick thì đột nhiên anh thấy mình đứng giữa hành lang của một ngôi nhà xa lạ. Anh mắc kẹt giữa một núi ủng đi mưa, chúng có mùi như những cơn mưa rào. Cuối hành lang, ánh sáng mờ ảo đang bao quanh cánh cửa, nên anh đã tiến lại gần cửa rồi nhìn vào trong, rất chậm rãi và rất khẽ khàng. Căn phòng có màu trắng, và ngập tràn trong ánh bình minh. Bên cửa sổ, một phụ nữ đang ngồi quay lưng lại phía anh, và mặc chiếc áo len màu đỏ san hô, mái tóc dài bạc trắng xoã xuống lưng. Một cốc trà đặt trên chiếc bàn bên cạnh. Chắc hẳn anh đã gây ra tiếng động, hoặc cũng có thể bà ấy cảm nhận được anh đang đứng phía sau nên đã quay lại và nhìn thấy anh. Người phụ nữ đó là em, Clare, đó là em trong hình hài của một bà lão, ở tương lai. Anh đã thật hạnh phúc, Clare, thật hạnh phúc không lời nào tả xiết khi được gặp em, như trở về từ cái chết và ôm em vào lòng, được nhìn những năm tháng hiển hiện trên khuôn mặt em. Anh sẽ không kể cho em thêm nữa, để em có thể tự hình dung, để em có thể bất ngờ đón nhận nó khi thời gian đến, vì nó sẽ, và nó đã. Chúng ta sẽ gặp lại nhau, Clare ạ. Cho đến khi đó, hãy sống thật trọn vẹn và sống cho hiện tại trong thế giới tuyệt đẹp này.
Trời đã tối và anh đang dần kiệt sức. Anh yêu em, mãi mãi. Thời gian chẳng có nghĩa lí gì với tình yêu đó.
Henry.
Tồn tại
Thứ Bảy, 12/7/2008 (Clare 37 tuổi)
CLARE: Charisse đã đưa Alba, Rosa, Max và Joe đi trượt pa-tanh ở Rainbo. Tôi lái xe đến nhà cậu ấy để đón Alba, nhưng tôi đến sớm còn Charisse về muộn. Gomez cuốn khăn tắm ra mở cửa.
“Em vào đi”, anh ấy nói, rồi mở rộng cửa ra. “Cà phê nhé?”
“Được thôi.” Tôi đi theo anh ấy qua phòng khách bừa bộn của họ vào nhà bếp. Tôi ngồi xuống chiếc bàn vẫn đang ngổn ngang bát đĩa từ bữa sáng, dọn một chỗ đủ rộng để đặt khuỷu tay lên mặt bàn, Gomez sục sạo quanh nhà bếp để pha cà phê.
“Lâu lắm không thấy mặt em.”
“Em khá bận. Alba đang đi học đủ thứ, em phải đưa con bé đi khắp nơi.”
“Em vẫn sáng tác chứ?” Gomez đặt tách và đĩa xuống trước mặt tôi rồi rót cà phê vào. Sữa và đường đã có sẵn ở bàn nên tôi tự lấy.
“Không.”
“Ồ.” Gomez đứng tựa vào bàn nấu ăn, tay ôm cốc cà phê của mình. Tóc anh ấy đen bóng vì nước và được chải phẳng lì. Tôi đã không để ý đường chân tóc của Gomez đang lùi dần về phía sau. “Ngoài việc đưa đón công chúa của em đi khắp nơi, em còn làm gì nữa?”
Tôi làm gì? Tôi đợi. Tôi nghĩ. Tôi ngồi trên giường và ôm chiếc áo vẫn còn vương mùi Henry, hít vào căng phổi mùi hương của anh ấy. Tôi đi lang thang lúc hai giờ sáng, khi Alba đã ngủ an toàn trên giường của con bé; đi những đoạn đường dài cho đến khi mệt lả để có thể chìm vào giấc ngủ. Tôi trò chuyện với Henry như thể anh ấy vẫn còn ở đây bên tôi, như anh ấy có thể nhìn thấy qua đôi mắt tôi, và suy nghĩ bằng trí não tôi.
“Không có gì nhiều.”
“Hừm.”
“Anh thì sao?”
“Em biết rồi đấy. Công việc. Đóng vai trưởng giả nghiêm khắc trong nhà. Những việc bình thường.”
“Ồ.” Tôi nhấp một ngụm cà phê. Tôi nhìn đồng hồ phía trên bồn rửa bát. Nó có hình dáng một con mèo đen: đuôi nó lắc lư qua lại như một quả lắc và cặp mắt to chuyển động theo mỗi nhịp, kêu tíc tắc ầm ĩ. Đang là 11 giờ 45 phút.
“Em có muốn ăn gì không?”
Tôi lắc đầu. “Không, cảm ơn anh.” Dựa trên đống bát đĩa trên bàn, tôi biết Charisse và Gomez đã ăn dưa mật, trứng bác và bánh mì cho bữa sáng. Lũ trẻ đã ăn Lucky Charms, Cheerios và thứ gì đó có lẫn bơ đậu phộng. Bàn ăn chính thị là hiện trường tái diễn bữa ăn sáng của một gia đình thế kỉ hai mươi mốt.
“Em có đang hẹn hò với ai không?” Tôi nhìn lên và Gomez vẫn tựa người vào chiếc bàn nấu ăn, vẫn giữ cốc cà phê ngang cằm.
“Không.”
“Tại sao không?”
Không phải việc của anh, Gomez ạ. “Em chỉ đơn giản không nghĩ đến nó.”
“Em nên nghĩ đến nó.” Anh ấy đặt cốc vào bồn.
“Tại sao?”
“Em cần điều gì đó mới mẻ. Cần ai đó mới mẻ. Em không thể cứ ngồi một chỗ và đợi Henry xuất hiện cả đời được.”
“Dĩ nhiên em có thể. Cứ chờ mà xem.”
Gomez tiến tới hai bước và đứng sát cạnh tôi. Anh ấy nhoài người và ghé miệng sát tai tôi. “Em không bao giờ nhớ điều này sao?” Anh ấy liếm tai tôi. Có, tôi có nhớ. “Cút đi, Gomez”, tôi rít lên với anh ấy, nhưng tôi không tránh đi chỗ khác. Tôi bị dính chặt vào ghế của mình bởi ý nghĩ đó. Gomez vén tóc tôi lên và hôn vào sau cổ của tôi.
Hãy đến với em! Ôi! Hãy đến với em!
Tôi nhắm mắt lại. Đôi bàn tay léo tôi ra khỏi ghế, cởi cúc áo tôi. Một chiếc lưỡi đặt lên cổ tôi, lên vai tôi và lên ngực tôi. Tôi với tay ra mò mẫm, chiếc khăn tắm rơi xuống sàn. Henry. Đôi bàn tay cởi cúc quần jeans của tôi, kéo chúng xuống, ngả người tôi xuống bàn ăn. Có thứ gì đó bằng kim loại rơi xuống. Thức ăn và dao đĩa, một chiếc đĩa bán nguyệt, vỏ nhựa dính dưới lưng tôi. chân tôi dạng ra. Lưỡi đặt lên vùng kín. “Ôi!” Chúng tôi đang ở trong đồng cỏ. Đang là mùa hè. Một cái chăn màu xanh. Chúng tôi vừa ăn, vị của dưa vẫn còn ở trong miệng. Lưỡi rời ra bỏ lại một khoảng trống, ướt và rộng mở. Tôi mở mắt ra; tôi đang nhìn chằm chằm vào cái cốc nước cam chỉ còn một nửa. Tôi nhắm mắt lại. dương v*t của Henry đều đặn đi vào trong tôi mạnh mẽ. Phải. Em đã rất kiên nhẫn chờ đợi. Henry. Em biết sớm hay muộn anh cũng sẽ trở lại thăm em. Phải. Da chạm da, tay chạm ngực, đôi thân thể bám vào nhau đẩy theo nhịp.
“Ôi, Henry...”
Tất cả dừng lại. Chỉ còn tiếng đồng hồ đang kêu tích tắc. Tôi mở mắt ra. Gomez đang nhìn chằm chằm xuống tôi bằng vẻ tổn thương hay giận dữ? Trong khoảnh khắc, mặt anh ấy vô cảm. Tiếng cửa xe đóng lại. Tôi ngồi dậy, nhảy xuống khỏi bàn và chạy vào phòng tắm, Gomez ném quần áo của tôi vào theo.
Trong lúc mặc quần áo, tôi nghe tiếng Charisse và lũ trẻ đi vào cửa trước, cười đua. Alba gọi, “Mẹ ơi!” và tôi thét lên đáp lại, “Mẹ sẽ ra ngay!” Tôi đứng trong ánh sáng mờ ảo của căn phòng tắm bằng gạch đen và hồng, nhìn chăm chăm vào chính mình trong gương. Tóc tôi dính Cheerios. Hình ảnh của tôi trong gương xanh xao và lạc lối. Tôi rửa tay, cố chải lại tóc bằng những đầu ngón tay. Mình đang làm gì thế này? Mình đã chấp nhận để cho chính mình trở thành loại người gì thế này?
Rồi câu trả lời vụt đến: Giờ mày đã là một kẻ lãng du.
Thứ Bảy, 26/7/2008 (Clare 37 tuổi)
CLARE: Phần thưởng cho Alba vì đã ngoan ngoãn đợi ở các phòng tranh trong lúc tôi và Charisse ngắm các tác phẩm là được đi đến Ed Debevic, một nhà hàng có các hoạt động đặc biệt dành cho thực khách. Ngay khi chúng tôi bước qua cửa, không khí của những năm 1964 tràn ngập. The Kinks đang chơi hết cỡ và các khẩu hiệu được treo khắp nơi:
“Nếu bạn là khách hàng tốt, bạn sẽ gọi thêm món!!!”
“Vui lòng nói rõ ràng khi gọi món.”
“Cà phê của chúng tôi rất ngon, bản thân chúng tôi cũng uống nó!”
Hôm nay là ngày bong bóng động vật; một quý ông trong bộ com-lê màu tía bóng lộn lôi ra một con chó Dachshund cho Alba rồi biến nó thành một cái mũ và đặt nó lên đầu con bé. Con bé vui mừng quấn quít. Chúng tôi xếp hàng suốt nửa tiếng mà Alba không hề phàn nàn một tiếng; con bé ngắm những cô cậu bồi bán tán tỉnh nhau và âm thầm định lượng những con vật bằng bong bóng của những đứa trẻ khác. Cuối cùng chúng tôi được dẫn tới bàn của mình bởi một cậu bồi bàn đeo cặp kính gọng sừng dầy cộm, bảng tên của cậu ta ghi SPAZ. Charisse và tôi mở thực đơn, cố tìm món gì đó ở giữa phô mai Cheddar rán và thịt viên chiên. Alba nói sữa đánh đá liên hồi. Khi Spaz xuất hiện trở lại, Alba bỗng nhiên trở nên ngượng nghịu và phải được dỗ mãi mới nói cho cậu ta biết con bé muốn gọi một li sữa đánh đá vị bơ đậu phộng (và một phần khoai tây chiên nhỏ, vì tôi bảo nó rằng chỉ uống sữa đánh đá vào bữa trưa là không tốt). Charisse gọi mì ống trộn pho mát, còn tôi gọi bánh mì tròn kẹp thịt xông khói, cà chua và xà lách. Khi Spaz vừa đi khuất, Charisse ngân nga, “Alba và Spaz, ngồi trên cây, H-Ô-N...” Alba nhắm mắt lại và đưa tay bịt tai, vừa lắc đầu vừa mỉm cười. Cậu bồi bàn có bảng tên BUZZ oai vệ đi về phía máy karaoke và bật I Love That Old Time Rock and Roll của Bob Seger.
“Tớ ghét Bob Seger”, Charisse nói. “Cậu nghĩ ông ta có mất 30 giây để viết bài hát đó không?”
Sữa đánh đá được mang đến trong chiếc cốc cao với cái ống hút xoắn tít và một ống lắc bằng kim loại đựng số sữa đánh đá không thể chứa thêm trong cốc. Alba đứng dậy để uống, con bé đứng bằng đầu ngón chân để có được góc đứng tốt nhất nhắm cúi xuống hút món sữa đánh đá và bơ đậu phộng. Con chó Dachshund bằng bong bóng cứ không ngừng trượt xuống trán con bé, làm gián đoạn sự tập trung. Con bé ngẩng đầu lên nhìn tôi sau cặp lông mi đen dày của nó và đẩy cái mũ bong bóng lên cao đến nỗi nó chỉ còn bám được vào đầu con bé nhờ tĩnh điện.
“Khi nào bố về ạ?” con bé hói. Charisse phát ra một tiếng động mà người ta vẫn phát ra khi không may để Pepsi chạy lên mũi, rồi bắt đầu ho sặc sụa. Tôi vỗ vào lưng cậu ấy cho đến khi cậu ấy giơ tay ra hiệu bảo tôi dừng lại.
“29 tháng Tám”, tôi nói với Alba. Con bé quay trở lại hút xì xụp cặn của cốc sữa đá trong lúc Charisse nhìn tôi trách móc.
Một lát sau, chúng tôi ngồi trên xe trên cao lộ Lake Shore Drive; tôi cầm lái còn Charisse nghịch đài radio, Alba ngủ trên ghế sau. Tôi rẽ ra khỏi xa lộ ở công viên Irving và Charisse nói, “Alba không biết rằng Henry đã chết sao?”
“Dĩ nhiên con bé biết. Nó đã nhìn thấy Henry lúc anh ấy qua đời”, tôi nhắc cho Charisse nhớ.
“Vậy thì tại sao cậu nói với con bé rằng anh ấy sẽ về vào tháng Tám?”
“Bởi vì anh ấy sẽ. Chính anh ấy đã đưa cho tớ danh sách ngày tháng.”
“Ồ.” Cho dù mắt tôi đang dán vào tường, tôi vẫn có thể cảm nhận được Charisse đang nhìn tôi chằm chằm. “Như vậy không phải kì lắm sao?”
“Alba thích như vậy.”
“Kì đối với cậu.”
“Tớ không gặp anh ấy.” Tôi cố giữ giọng bình thản, như thể tôi không bị hành hạ bởi sự bất công này, như thể tôi không nuốt cơn oán giận vào lòng khi Alba kể với tôi về những lần gặp gỡ của con bé và Henry, cho dù tôi đang nuốt từng lời nó kể.
Tại sao không phải em, Henry? Tôi hỏi anh ấy trong im lặng trong lúc rẽ vào lối đi ngổn ngang đồ chơi dẫn tới nhà Charisse và Gomez. Tại sao chỉ Alba? Nhưng như thường lệ, chẳng có câu trả lời. Như thường lệ, chuyện phải là như thế. Charisse hôn tạm biệt tôi và bước xuống xe, bình thản bước về phía chiếc cửa đang mở ra huyền ảo, để lộ Gomez và Rosa đang đứng đó, Rosa nhún nhảy giơ cho Charisse xem thứ gì đấy. Charisse cầm lên và đáp trả, rồi ôm chặt con bé. Gomez nhìn tôi chằm chằm, rồi cuối cùng khẽ đưa tay lên vẫy. Tôi vẫy đáp lại. Anh ấy quay người bỏ đi. Charisse và Rosa đã bước vào trong. Cánh cửa khép lại.
Tôi ngồi đó trên lối đi dẫn vào nhà, Alba đang ngủ trên ghế sau. Những con quạ đang bước đi trên bãi cỏ bồ công anh tàn tạ. Henry, anh đang ở đâu? Tôi gục đầu vào tay lái. Hãy cứu em. Không có tiếng trả lời. Sau khoảng một phút, tôi khởi động xe, đi lùi ra khỏi con đường và hướng về nhà trong im lặng.
Thứ Bảy, 3/9/1990 (Henry 27 tuổi)
HENRY: Ingrid và tôi đã để lạc mất xe và chúng tôi đang say xỉn. Trời đã tối, chúng tôi đã đi tới, đi lui, đi vòng quanh khắp xó nhưng vẫn không thấy xe. Tiên sư Lincoln Park. Tiên sư Lincoln Towing. Tiên sư chúng nó.
Ingrid tức tối. Cô ấy đang đi trước mặt tôi. Lưng của cô ấy, thậm chí cái cách hông của cô ấy chuyển động, cũng tức tối. Đây là lỗi của tôi. Câu lạc bộ đêm Park West chết tiệt. Tại sao lại có người mở câu lạc bộ đêm ở giữa Lincoln Park nơi bạn không thể đỗ xe quá mười giây mà không bị Lincoln Towing kéo về ổ để hả hê giam giữ.
“Henry.”
“Gì?”
“Lại cô bé đó.”
“Cô bé nào?”
“Cô bé chúng ta đã nhìn thấy lúc nãy.” Ingrid dừng lại. Tôi nhìn về phía cô ấy đang chỉ.
Cô bé đang đứng trước cửa hàng hoa. Nó mặc thứ gì đó sẫm màu, tất cả những gì tôi có thể nhìn thấy là khuôn mặt trắng và đôi chân trần của nó. Cô bé khoảng bảy, tám tuổi; quá nhỏ để ra ngoài một mình vào ban đêm thế này. Ingrid bước lại gần cô bé, nó đang nhìn cô ấy bình thản.
“Cháu ổn chứ?” Ingrid hỏi cô bé. “Cháu đi lạc hả?”
Cô bé nhìn tôi và nói, “Cháu đã đi lạc, nhưng giờ thì cháu biết mình đang ở đâu rồi. Cảm ơn cô.”, con bé lịch sự nói thêm.
“Cháu có cần đi nhờ về không? Bọn cô sẽ đưa cháu về nếu cô tìm được xe của mình.” Ingrid nhoài người về phía cô bé, mặt cô ấy chỉ cách nó chỉ một gang tay. Tôi bước lại gần họ và nhận ra cô bé đang mặc một chiếc áo gió của đàn ông, nó dài đến tận mắt cá chân cô bé.
“Không cần đâu ạ, cảm ơn cô. Dù sao cháu cũng sống xa nơi này lắm.” Cô bé có mái tóc đen dài và đôi mắt sáng; trong ánh đèn vàng của cửa hàng hoa, nó trông như một cô bé bán diêm thời Victoria.
“Mẹ cháu đâu?” Ingrid hỏi. Cô bé trả lời, “Mẹ cháu ở nhà.” Nó mỉm cười với tôi và nói, “Bà không biết cháu đang ở đây.”
“Cháu đã bỏ nhà đi hả?” Tôi hỏi cô bé.
“Không ạ”, cô bé đáp, và cười. “Cháu đang đi tìm bố, nhưng có lẽ cháu đã đến quá sớm. Cháu sẽ quay lại sau.” Cô bé lách qua Ingrid và tiến lại gần tôi, túm lấy áo choàng của tôi và kéo về phía cô bé. “Chiếc xe đỗ bên kia đường”, cô bé thì thầm. Tôi nhìn sang bên kia đường và thấy chiếc Porsche của Ingrid đang nằm đó. “Cảm ơn...” tôi nói, và cô bé đâm bổ tới hôn tôi, nụ hôn trượt vào gần tai, rồi chạy đi mất, đôi chân trần của nó vỗ lên mặt đường bê tông trong lúc tôi đứng đăm đăm nhìn nó. Ingrid chẳng nói gì trong lúc chúng tôi bước vào xe. Cuối cùng tôi nói, “Con bé thật lạ”, và cô ấy thở dài, nói, “Henry, là một người thông minh nhưng đôi khi anh thật chậm tiêu”, rồi cô ấy thả tôi xuống trước cửa toà nhà của tôi mà không nói thêm một lời.
Thứ Bảy, 29/7/1979 (Henry 42 tuổi)
HENRY: Đâu đó trong quá khứ, tôi đang ngồi ở bãi biển Lighthouse với Alba. Con bé mười tuổi, còn tôi bốn mươi hai. Cả hai chúng tôi đã đi xuyên thời gian. Đó là một buổi chiều muộn ấm áp, có lẽ tháng Bảy hoặc tháng Tám. Tôi đang mặc chiếc quần jeans và áo phông trắng ăn trộm được từ một căn biệt thự Bắc Evanston sang trọng; Alba mặc áo ngủ màu hồng mà con bé đã thó từ dây phơi quần áo của một bà lão nào đấy. Nó quá dài so với con bé nên chúng tôi đã buộc nó quanh đầu gối của con bé. Suốt buổi chiều mọi người cứ không ngừng ném cho chúng tôi những cái nhìn kì quái. Có lẽ chúng tôi không thực sự trông như một ông bố và cô con gái thông thường trên bãi biển. Nhưng chúng tôi đã làm hết mức có thể; chúng tôi đã đi bơi và đã xây một lâu đài bằng cát. Chúng tôi đã ăn hotdog và khoai tây chiên mua từ quầy bán dạo trong bãi gửi xe. Chúng tôi không có bạt hay cái khăn tắm nào, nên khắp người chúng tôi dính đầy cát, ẩm ướt và mệt lử. Chúng tôi đang ngắm lũ trẻ con chạy vòng quanh trước những con sóng, và những con chó đần độn phì nhiêu hớn hở chạy theo chúng. Mặt trời đang dần khuất bóng phía sau chúng tôi trong lúc chúng tôi nhìn đăm đăm lên mặt biển.
“Bố kể chuyện cho con nghe đi”, Alba nói, tựa đầu vào tôi như một sợi mì để lâu.
Tôi quàng tay qua người con bé. “Chuyện gì?”
“Một câu chuyện thú vị. Chuyện ngày xưa về bố và mẹ, khi mẹ còn bé.”
“Được rồi. Ngày xửa ngày xưa...”
“Đó là khi nào ạ?”
“Tất cả thời gian là một. Một thời gian dài về trước, và hiện tại.”
“Cả hai sao ạ?”
“Phải, luôn luôn là cả hai.”
“Làm sao có thể là cả hai?”
“Con có muốn bố kể chuyện không nào?”
“Có ạ...”
“Vậy thì ngồi yên. Ngày xửa ngày xưa, mẹ con sống trong một ngôi nhà lớn bên cạnh một đồng cỏ, và trên đồng cỏ có một nơi gọi là khoảng rừng thưa, nơi mẹ con vẫn thường ra chơi. Vào một ngày đẹp trời, mẹ con, lúc đó vẫn còn là một cô nhóc tí hon, mái tóc còn to hơn người, ra khoảng rừng thưa chơi và có một người đàn ông đang ở đó...”
“Người đàn ông không mặc quần áo!”
“Một sợi chỉ cũng không”, tôi đồng tình. “Và sau khi mẹ con đưa cho ông ấy chiếc khăn tắm mà mẹ con tình cờ mang theo, ông ấy giải thích rằng ông ấy là người du hành thời gian, và chẳng hiểu vì sao mẹ con đã tin lời ông ấy...”
“Vì đó là sự thật!”
“Phải, nhưng làm sao mẹ con biết được? Dù sao thì mẹ con cũng đã tin ông ấy, và sau đó còn ngớ ngẩn đến mức lấy ông ấy. Và giờ chúng ta ở đây.”
Alba đấm vào bụng tôi. “Bố kể cho đúng đi”, con bé yêu cầu.
“Ôi. Làm sao bố có thể kể cho con nghe điều gì nếu con cứ đánh bố như vây? Chúa ạ.”
Alba im lặng. Rồi con bé nói, “Tại sao bố không bao giờ đến thăm mẹ ở tương lai?”
“Bố không biết, Alba. Nếu có thể, dĩ nhiên bố muốn đến.” Màu xanh đang đậm dần phía chân trời và thuỷ triều đang xuống. Tôi đứng dậy, chìa tay ra cho Alba, kéo con bé đứng dậy. Con bé đứng phủi cát ra khỏi tấm áo ngủ, rồi vấp ngã về phía tôi và nói, “Ối!” rồi biến mất. Tôi đứng đó giữ chiếc áo ngủ bằng cotton ẩm ướt trên tay và nhìn đăm đăm vào dấu chân mảnh khảnh của Alba trong ánh sáng đang lụi dần.
Tái sinh
Thứ Năm, 4/12/2008 (Clare 37)
CLARE: Đó là một buổi sáng lạnh lẽo. Tôi mở cửa xưởng vẽ và giậm cho tuyết rơi khỏi ủng. Tôi kéo rèm và bật lò sưởi, pha cà phê. Tôi đứng ở góc trống giữa xưởng và nhìn quanh.
Hai năm của bụi bặm và sự tĩnh mịch chìm lên mọi đồ vật. Bàn vẽ trơ trụi. Bộ chày cối nằm sạch sẽ và trống rỗng. Những cái khuôn được sắp xếp gọn gàng, các cuộn dây chưa được đụng đến nằm cạnh bàn. Sơn và phẩm màu, các lọ đựng bút vẽ, sách vở, tất cả vẫn y nguyên như khi tôi bỏ chúng. Các bức phác hoạ tôi ghim lên tường đã úa vàng và cong queo. Tôi gỡ chúng xuống và ném vào giỏ rác.
Tôi ngồi xuống bàn vẽ và nhắm mắt lại.
Gió đang thổi những ngọn cây dập vào hông làm căn nhà kêu lên những tiếng xào xạc, một chiếc xe chạy qua vũng nước trong hẻm. Máy pha cà phê rít lên rồi kêu òng ọc khi nhỏ giọt cà phê cuối cùng vào bình. Tôi mở mắt ra, cảm thấy ớn lạnh nên ghì chặt chiếc áo len nặng nề vào người.
Sáng nay, khi tỉnh dậy, có điều gì đó đã thúc giục tôi phải đến đây. Nó như thể sự trào dâng của sắc dục: một cuộc hẹn hò vụng trộm với người tình cũ, nghệ thuật, của tôi. Nhưng giờ tôi đang ngồi đây và chờ đợi thứ gì đó đến, nhưng chẳng có gì. Tôi mở ngăn bàn phẳng lì và lôi ra một tờ giấy nhuốm chàm. Nó nặng nề và hơi thô ráp, màu xanh lam và lạnh lẽo như kim loại. Tôi đặt nó xuống bàn. Tôi đứng đó và nhìn chằm chằm nó một hồi. Tôi lôi ra một nắm bút chì màu và giữ chúng trong lòng bàn tay. Rồi tôi đặt chúng xuống và rót cho mình một cốc cà phê. Tôi nhìn ra cửa sổ cuối căn nhà. Nếu Henry ở đây, chắc hẳn anh ấy sẽ ngồi bên chiếc bàn của mình và nhìn tôi. Hoặc có thể anh ấy sẽ chơi Scrabble với Alba, đọc truyện tranh hoặc nấu súp cho bữa trưa. Tôi nhấp một ngụm cà phê và cố tìm cách cảm nhận thời gian trở lại, cố xoá đi sự khác biệt giữa xưa và nay. Chỉ có kí ức đang giữ tôi ở lại. Thời gian, hãy để tôi tan biến. Để những điều chia cách chúng ta có thể hoà làm một.
Tôi đứng trước tờ giấy nhuộm chàm, tay giữ cây bút chì màu trắng. Tờ giấy rộng mênh mông, và tôi bắt đầu từ chính giữa, cúi người trên tờ giấy cho dù tôi biết tôi sẽ thoải mái hơn nếu vẽ trên giá. Tôi vẽ khung cho bức tranh, to nửa người: đây là đỉnh đầu, háng, gót chân. Tôi phác thảo khuôn mặt. Tôi vẽ phớt, từ trí nhớ: đôi mắt trống rỗng, trung điểm, cái mũi dài, cái miệng tròn khẽ mở. Đôi lông mày nhướn lên ngạc nhiên: ồ, đó là mày. Cái cằm nhọn và quai hàm tròn trịa, trán cao và hai tai chỉ hơi ló ra. Đây là cái cổ, đôi vai chảy xuống hai tay đang khoanh trước ngực, đây là đáy vòm ngực, cái bụng phúng phính, hai hông đầy đặn, đôi chân hơi cong cong, bàn chân chĩa xuống như thể cả thân mình đang bay giữa không trung. Các điểm phác thảo như những ngôi sao trên bầu trời màu chàm của giấy; bóng người là một chòm sao. Tôi tô đậm những điểm quan trọng và bóng người trở thành ba chiều. Tôi cẩn thận vẽ mặt, tô mắt – nó đang nhìn tôi – ngạc nhiên trước sự tồn tại bất chợt. Mái tóc lượn sóng dọc tờ giấy, bồng bềnh nhẹ bẫng và bất động, những đường kẻ khiến cơ thể tĩnh lặng như đang nhúc nhích. Còn gì khác trong bức vẽ này, thế giới này? Các ngôi sao xa tít. Tôi lục trong đống đồ đạc để tìm cây kim. Tôi dán bức vẽ lên cửa sổ và bắt đầu chọc những lỗ nhỏ vào tờ giấy, mỗi lỗ trở thành một mặt trời toả sáng từ một thế giới khác. Và khi tôi đã có một thiên hà đầy sao, tôi bắt đầu chọc đến bóng người trong tranh, mà giờ đây đã thành một chòm sao thực sự, một mạng lưới của những chùm sáng nhỏ. Tôi nhìn bản sao của mình, và cô ta nhìn lại tôi. Tôi đặt ngón tay lên trán cô ta và nói. “Tan biến”, nhưng cô ta vẫn ở lại; tôi mới là người đang tan biến.
Gặp lại
Thứ Năm, 24/7/2053 (Henry 43, Clare 83)
HENRY: Tôi thấy mình đang đứng trong hành lang tối. Ở cuối hành lang, một cánh cửa đang hé mở, ánh sáng trắng bao quanh viền cửa. Hành lang ngổn ngang ủng cao su và áo đi mưa. Tôi bước chậm rãi và yên lặng về phía cửa, cẩn thận nhìn vào trong. Ánh sáng ban mai tràn ngập khắp phòng có một chiếc bàn gỗ đơn sơ đặt cạnh cửa sổ. Một người phụ nữ đang ngồi ở bàn, nhìn ra ngoài. Cốc trà đặt bên cạnh. Bên ngoài là bãi biển, những con sóng vồ vập chồm lên bờ rồi điềm tĩnh rút về theo từng đợt lặp lại. Mặt biển tĩnh lặng sau vài phút. Người phụ nữ ngồi bất động. Có điều gì đó rất quen thuộc ở bà. Đó là một người phụ nữ đã già; mái tóc bạc trắng, mỏng và xoã dài xuống cái lưng hơi còng. Bà mặc một chiếc áo len màu san hô. Đường cong trên đôi vai và sự tĩnh lặng trong dáng điệu của bà nói lên rằng đây là một người đã rất mệt mỏi, và bản thân tôi cũng rất mệt mỏi. Tôi đổi chân đứng, dồn sức nặng đang đè lên chân này sang chân kia, khiến sàn nhà kêu lên kẽo kẹt; người phụ nữ quay người lại và nhìn thấy tôi, mặt bà được tái sinh trong hạnh phúc, tôi sửng sốt, đây là Clare, Clare khi về già! Và cô ấy đang tiến lại gần tôi, rất chậm rãi, và tôi ôm cô ấy vào lòng.
Thứ Hai, 14/7/2053 (Clare 82 tuổi)
CLARE: Buổi sáng nay mọi thứ đều sáng sủa; cơn bão đã để lại những cành cây ngổn ngang trong vườn, mà tôi sẽ sớm ra đó nhặt chúng lên. Cát trên bãi biển đã được phân bổ lại, nằm tươi mới trên bờ, lỗ chỗ dấu vết những giọt mưa để lại. Những cây Hoa Hiên cong mình lấp lánh trong ánh sáng trắng lúc bảy giờ của ngày mới. Tôi ngồi bên bàn ăn với cốc trà bên cạnh, nhìn ra mặt biển, lắng nghe và chờ đợi.
Hôm nay chẳng có gì khác so với mọi ngày. Tôi thức dậy từ sớm, mặc quần và áo len, chải tóc, nướng bánh mì, pha trà và ngồi nhìn ra biển, tự hỏi liệu hôm nay anh ấy có đến. Chẳng có gì khác so với những lần anh ấy biến mất còn tôi ngồi đợi trước đây, chỉ có điều lần này tôi được biết cuối cùng Henry cũng sẽ đến. Có đôi lúc tôi tự hỏi liệu sự sẵn sàng này, sự mong ngóng này có ngăn không cho điều kì diệu xảy ra. Nhưng tôi không có lựa chọn nào khác. Anh ấy đang đến, và tôi ở đây.
Từ ngực cho đến mắt
cơn đau của nỗi khát khao dâng tràn, và cuối cùng anh cũng khóc,
người vợ thân yêu của anh, thanh cao và chung thuỷ, đang trong vòng tay anh,
mong mỏi như mặt đất ấm áp được mong mỏi bởi người đang bơi trong con sóng hung bạo khi thuyền chìm
bên dưới sự giận dữ của Poseidon, gió gào thét và biển mênh mông.
Chẳng mấy ai có thể sống sót sau những con sóng lớn
để trườn, muối đọng tấm thân, trên bãi biển yên bình
trong niềm vui sướng hạnh phúc, khi biết vực thẳm đã bị bỏ lại sau lưng:
và vì thế cô quá đỗi hân hoan, mắt nhìn chồng
đôi cánh tay bạc trắng ôm lấy anh ghì chặt trong sự vĩnh hằng.
Trích, The Odyssey
Homer
Danh sách chương