Mark Easterbrook, người tường thuật các sự kiện chính trong truyện, chứng kiến một vụ đánh nhau giữa hai cô gái trong một quán rượu ở Chelsea. Chẳng bao lâu sau đó, anh đọc được tin cáo phó trên báo về cái chết của cô Thomasina Tuckerton, một trong hai côgái đã đánh nhau đó. Và trong một bữa ăn tối với bạn bè, anh lại nghe một cô gái, Poppy Stirling, nói bóng gió đến CON NGỰA NHỢT NHẠT, một nơi có thể sắp đặt trước cái chết cho người khác.
Khi Mark gặp Corrigan, một bác sĩ pháp y bạn anh, anh lại được bạn cho xem một danh sách những cái tên tìm thấy trong đôi giày của cha Gorman, người cũng vừa bị giết chết sau khi đến rửa tội cho một phụ nữ đang hấp hối. Trong đó có tên của phu nhân Hesketh-Dubois, mẹ đỡ đầu của anh, người vừa qua đời gần đây, và tên của Thomasina Tuckerton, cô gái mà anh vừa đọc tin cáo phó trên báo. Anh bắt đầu cảm thấy lo sợ và nghĩ rằng những người có tên trong bản danh sách kia là những người có cái chết đã được báo trước…
Chiếc bình pha cà phê chạy điện đặt phía sau lưng tôi rít lên như một con rắn đang giận dữ. Tiếng động tự nó có vẻ như là một cái gì thê thảm và gần như là ma quái. Tôi nghĩ rằng trong thời đại của chúng ta có biết bao nhiêu âm thanh làm chúng ta khó chịu như tiếng rú của máy bay phản lực, tiếng gầm điếc tai, doạ nạt của tàu điện ngầm khi ra khỏi đường hầm, tiếng của những vật nặng đi qua làm rung chuyển nhà cửa... cho đến tiếng kêu của những máy móc dùng trong gia đình như tủ lạnh, máy hút bụi... cũng vậy. Hình như chúng nói: "Coi chừng, chúng ta là những vị thần bị buộc chân để phục vụ các người, nếu các người không thể kiểm soát nổi chúng ta và... ". Ôi một thế giới có biết bao nhiêu là nguy hiểm!
Tôi quấy một thứ nước đặc sánh trong một chiếc tách đặt trước mặt. Mùi thơm thật là dễ chịu.
- Chỉ dùng có vậy sao, thưa ngài? Một chiếc bánh kẹp thịt, vài quả chuối là một miếng thịt lợn hun khói nữa chứ? Cách ăn uống hỗn tạp như vậy quả là lạ lùng đối với tôi. Nhưng tôi đã ngồi trong một quán rượu ở Chelsea cũng như đã thích ứng được với những thói quen ở đây. Tôi nhận một chiếc bánh kẹp thịt mà nhà hàng đã mời chào.
Tuy đã là dân sống ở Chelsea, từ ba tháng nay, trong một căn hộ đủ tiện nghi, nhưng tôi còn xa lạ với nó về nhiều mặt. Tôi đang viết một cuốn sách nói về khoa kiến trúc của Mông Cổ, và để làm được việc đó đáng lẽ tốt hơn cả là tôi có thể sống ở Hampstead hoặc ở Bloomsbury. Môi trường sống của tôi thì lại hoàn toàn khác hẳn: tôi sống trong cái vũ trụ của cá nhân tôi.
Tối hôm nay tôi lâm vào một trong những cơn buồn chán thường thấy của các nhà văn.
Khoa kiến trúc Mông Cổ, các vị hoàng đế Mông Cổ và tất cả những đặc điểm của cuộc sống Mông Cổ đột nhiên đối với tôi chỉ còn là bụi bậm và tàn tro. Chúng có liên quan gì đến tôi? Tại sao tôi lại muốn viết về chúng?
Tôi chối bỏ làm việc. Hình như nó không còn là hay ho đối với tôi nữa, nó nghèo nàn về văn phong và mất hết lý thú.
Tôi ném bản thảo đi và đưa mắt nhìn chiếc đồng hồ quả quít. Đã mười một giờ khuya. Tôi đã ăn tối chưa nhỉ? Chưa, cái dạ dày của tôi trả lời. Còn bữa lót dạ thì đã lâu lắm rồi.
Trong tủ lạnh của tôi chỉ còn một miếng lưỡi lợn khô cứng mà tôi chẳng muốn đụng đến chút nào. Do đó tôi xuống đường King's và bước hú hoạ vào một quán cà phê có biển treo, đề tên chủ quán “Luigi" ghép bằng những bóng đèn huỳnh quang màu đỏ.
Ngồi trước chiếc bánh kẹp thịt, vài quả chuối và miếng thịt lợn hun khói, tôi nghĩ về những tiếng động trong cuộc sống hiện đại, về những cái xấu luôn luôn trội hơn những cái tốt, về sự bền vững để giành chiến thắng
Chiếc bình pha cà phê chạy điện vẫn réo bên tai. Tôi gọi một tách cà phê nữa và liếc nhìn xung quanh. Một trong các chị gái tôi đã nói là đừng bao giờ trở thành người quan sát. Lúc này tôi chăm chú quan sát tất cả.
Trong quán ánh sáng lù mù, nhìn không rõ. Khách hàng gồm hầu hết là những người trẻ tuổi. Tôi thấy các cô gái thường là bẩn thỉu như mọi cô gái ngày nay. Hình như các cô mặc quá nhiều quần áo. Một vài tuần lễ trước đây, tôi đã chú ý đến điều này trong khi đi ăn sáng với các bạn tôi. Cô gái ngồi gần tôi khoảng hai chục tuổi, dù trời không lạnh lắm, cô cũng mặc một chiếc săng-đay dày, màu vàng, một chiếc váy đen ra một đôi tất len đen. Mặt cô loáng ướt vì mồ hôi, người có toả ra một mùi len ngấm nhiều mồ hôi và mùi tóc lâu ngày không gội. Theo các bạn tôi thì cô ta là người rất quyến rũ. Còn tôi, tôi chỉ có một ý đỉnh là ném cô vào một bể nước nóng cùng với một miếng xà phòng và ra lệnh cho cô kỳ cọ thật kỹ! Tôi nghĩ rằng, về một điểm nào đó, tôi ít thích nghi với thời đại của mình. Tôi tưởng nhớ một cách thú vị về những cô gái theo đạo Hindu với những mớ tóc đen mượt, những chiếc váy màu sặc sỡ, có nhiều nếp rất duyên dáng theo từng cử động của thân thể.
Một tiếng động mạnh kéo tôi ra khỏi những kỷ niệm êm đềm đó. Hai cô gái ngồi bàn bên cãi nhau. Bạn bè khuyên giải nhưng không kết quả.
Bất thình lình, một cô tát cô kia đang cố gắng giật chiếc ghế của mình đang ngồi. Họ úm nhau như những chị hàng cá và thét lên những lời tục tĩu. Một cô tóc màu hung rối bù, cô kia tóc màu hoe cứng đờ.
Những tiếng kêu động viên nổi lên ở các bàn khác.
- Lại đây! Cho nó một trận, Lou!
Đứng cuối sàn nhảy, người vô can là Luigi, một người gốc Ý, giọng trọ trẹ, can thiệp:
- Ê, đằng kia, chà! Như thế đủ rồi! Cảnh sát sẽ đến tóm cổ các cô. Đủ rồi. Tôi bảo các cô!
Nhưng cô tóc hung đã túm tóc cô tóc hoe và điên cuồng giật mạnh.
- Mày chỉ là một con đĩ! Một con đĩ cướp chồng người!
- Con đĩ chính là mày đấy!
Luigi và các vệ sĩ của hai cô kéo họ ra. Cô tóc hung giơ cao mớ tóc màu hoe đẹp trong tay lên với một vẻ chiến thắng rồi ném nó xuống đất.
Bất chợt cửa mở và một người cảnh sát đại diện cho chính quyền đứng sững ở ngưỡng cửa.
- Ở đây xảy ra chuyện gì vậy?
Lập tức mọi người lập thành một mặt trận để chống lại kẻ thù chung:
- Người ta vui đùa - Một trong những trai trả lời.
- Đúng - Luigi nhấn mạnh - Bạn bè họ vui đùa với nhau.
Anh ta lấy chân đá nắm tóc vào gầm bàn. Những người có liên quan tới vụ ẩu đả nhìn nhau cười ngượng ngùng trước cặp mắt nghi ngờ của viên cảnh sát.
Như là một sự tình cờ, các khách hàng khác cho rằng đi khỏi quán lúc này là tốt hơn cả. Người cảnh sát đưa mắt nhìn theo họ: "Cái đó, lần này thôi. Nhưng… các người sẽ được chú ý". Sau đó anh ta bỏ đi.
Người vệ sĩ của cô gái tóc hoe thanh toán tiền.
- Có đau không? - Luigi hỏi cô gái đang buộc lại khăn quàng dưới cằm.
Luigi đã xen vào câu chuyện của cô một cách xấu xa. Họ đã giật tóc cô.
- Ô, cái đó không làm tôi đau - Cô lơ đãng trả lời. Cô cười với người chủ quán - Tha lỗi cho chúng tôi, Luigi.
Họ đi ra. Quán vắng tanh. Tôi tìm tiền.
- Có thể nói là cô ta nổi khùng - Luigi nhận xét.
Anh ta cầm cái chổi, quét hất những lọn tóc vào gầm quầy hàng.
- Cái đó thật là tàn bạo - Tôi nói.
- Nếu là tôi thì tôi đã kêu thét lên rồi - Luigi nói thêm - Nhưng cái cô Tommy ấy, cô ta đã lên cơn khùng.
- Anh biết rõ cô ấy chứ?
- Cô ta hầu như tối nào cũng có mặt ở đây. Tên cô ta là Tuckerton. Thomasina Tuckerton. Nhưng ở đây người ta gọi cô là Tommy Tucker. Cô ta có vô khối tiền. Ông già cô để lại cho cô cả một gia tài. Và cô ta đã làm gì? Cô ta sống trong một căn phòng bẩn thỉu trên đường Wandsworth Bridge và đi lang thang với một nhóm người như cô. Cái đó làm tôi sửng sốt đến ngã người ra. Họ có nhiều tiền. Họ có thể mua bất cứ cái gì, trọ cả trong khách sạn Ritz nếu họ muốn, nhưng cách sống ấy hình như đã lôi cuốn họ. Tôi thì tôi cắt đứt ngay cái kiểu sống như vậy.
Tôi hỏi anh ta về lý do của cuộc cãi đánh nhau.
- Ờ, cô Tommy đã nẫng tay trên người bạn trai của cô kia. Không cần phải đánh chửi nhau, xin ngài hiểu ý tôi là như vậy!
Một tuần lễ sau, trong mục tin buồn của báo Times có một tên người làm tôi chú ý: Tuckerton.
"Ngày hai, tháng mười, tại bệnh viện Fallowfield ở Amberly. Cô Thomasina Ann, hai mươi tuổi, ái nữ duy nhất của Ngài Thomas Tuckerton quá cố, ở quảng trường Carrington, khu Amberly, Surrey. Tang lễ trong phạm vi thân tình. Không mang theo hoa ".
Không có hoa cho cô Tommy Tucker khốn khổ và cũng không còn "sự kích động" ở khu Chelsea nữa. Một sự thương xót thoáng qua cho những cô Tommy Tucker lúc này xâm chiếm tâm hồn tôi. Nhưng cuối cùng thì ai có thể xác nhận rằng cách nhìn của tôi là đúng. Có phải là tôi đã để lãng phí cuộc đời mình bằng cách chìm ngập vào những cuốn sách đó không?
Tôi xua đuổi hình ảnh Tommy Tucker ra khỏi tâm trí tôi và xem tiếp những thư, báo mới nhận được.
Lá thư quan trọng là thư của người chị con ông bác tôi tên là Rhoda Despard nhờ tôi giúp chị một việc. Tôi vui vẻ đón nhận dịp may đó để khỏi phải làm việc và ra khỏi nhà.
* * *
Tôi gọi một chiếc taxi đưa tôi đến nhà của một trong những bạn gái của tôi là Ariadne Oliver, một tác giả có tên tuổi về truyện trinh thám. Người hầu phòng của cô, bà Milly, là một con rồng dữ tợn canh phòng mọi cuộc tấn công từ thế giới bên ngoài. Bà ra mở cửa khi nghe thấy tiếng chuông gọi cửa của tôi.
Tôi rướn lông mày lên hỏi. Bà Milly lắc đầu.
- Mời ông lên, thưa ông Mark - Bà ta nói - Sáng hôm nay bà chủ tôi đang cau có. Ông có thể giúp bà ấy bớt bực mình chăng.
Tôi lên hai tầng lầu, gõ nhẹ vào một cánh cửa và đẩy nó để bước vào phòng mà không đợi trả lời.
Phòng làm việc của Oliver là một căn phòng rộng, trên tường dán giấy có hình vẽ những con chim lạ, nấp dưới những lá cây nhiệt đới. Oliver bắt đầu có vẻ có những hành động điên rồ, đang đi đi, lại lại và nói chuyện một mình. Cô ta nhìn tôi nhưng không chú ý mà vẫn tiếp tục bước, thỉnh thoảng nhắm mắt lại như đang bị đặt dưới quyền lực của một sự đau đớn ghê gớm.
- Nhưng tại sao - Cô ta nói - Tại sao cái thằng ngu dốt ấy lại không... nói ngay rằng nó đã trông thấy một con vẹt có mào? Tại sao? Nó không thể không trông thấy con vật ấy ư? Nhưng nếu hắn nói ra thì tất cả sẽ sụp đổ. Phải có một cách... phải...
Cô ta càu nhàu, tay vừa nắm lấy những sợi tóc xám vừa giật ra. Thế rồi, bất chợt cô ta nhìn thấy tôi.
- … Chào Mark! Tôi điên lên mất. Thế rồi cả cô ả Monica nữa! Tôi càng cố làm cho cô ả trở thành dễ thương thì cô ta lại càng tỏ ra rụt rè, tỏ ra là một cô gái ngu đần và phàm tục đến như thế! Monica... Monica? Có lẽ là do vấn đề đặt tên... Susan ư? A! Tôi đã có một cái tên... Lucia chăng? Lucia? Hình như tôi đã trông thấy cô ta, chính cô ta! Một cô tóc hoe, bộ đồ đen bó sát người? Đi tất len trong mọi thời tiết?
Cái ý nghĩ về con vẹt có mào bị xáo đi nhanh chóng trong giây phút hứng khởi đó và Oliver lại tiếp tục đi dạo, trong khi đi tay cô cầm nhưng mắt không thèm nhìn những đồ chơi nho nhỏ mà cô đã để rải rác trong phòng. Sau đó cô ta đặt kính đeo mắt vào một chiếc hộp sơn mài trong đó đã có một chiếc quạt Trung Quốc, rồi cô thở dài đánh thượt.
- Tôi rất sung sướng rằng đây là anh.
- Cô thật đáng mến.
- Cái đó có thể đến với tất cả những ai không muốn và câu chuyện về con vẹt có mào đã làm tôi phát điên.
- Phải, nhiều khi do cách trình bày không đạt, tôi lưu ý cô. Có lẽ tốt hơn cả là tôi về.
- Không, anh đừng về. Dù sao anh cũng đã làm tôi được vui vẻ.
Tôi nuốt lấy những lời khen một cách êm ái.
- Anh có muốn hút thuốc lá không? Nó ở đâu đấy. Anh tìm trong cái nắp đậy máy chữ xem.
- Cám ơn. Tôi có thuốc của tôi rồi. Cô hút đi. Ơ! Đúng là cô không hút thuốc.
- Cũng không uống cả rượu nữa, tôi rất tiếc về cái đó. Cái đó có thể kết luận mọi vấn đề với những chàng thám tử Mỹ ấy, bao giờ họ cũng có một chai rượu mạnh mang trong người. Anh có biết không, Mark, tôi tự hỏi là trong cuộc sống tại sao có những người trốn thoát khi họ đã giết người. Tôi có cảm giác là cái đó ngay lập tức đã rõ ràng.
- Thật là buồn cười. Cô đã nhiều lần phạm cái tội đó, về phần cô.
- Ít nhất là trong năm mươi lăm cuốn truyện của tôi. Việc giết người tự nó là dễ dàng. Che giấu nó mới là khó khăn. Và đối với tôi thì thật là kinh khủng.
- Cô đã thành công năm mươi lăm lần, cô sẽ thành công một lần nữa.
- Đó là cái tôi thường nhắc nhở mình. Nhưng mỗi khi tôi không tin tưởng như vậy, tôi đau đớn như kẻ chết vì nghĩa cả.
Cô ta lại nắm lấy tóc và giật mạnh.
- Dừng lại! - Tôi kêu lên - Cô giật hết tóc mất.
- Thật là ngốc nghếch. Một sợi tóc rất khó giật. Tuy nhiên năm mười hai tuổi, tôi bị bệnh đậu mùa với một cơn sốt dữ dội. Tóc ở trước trán rụng hết. Phải mất sáu tháng tóc mới mọc lại. Thật là đáng sợ đối với một người con gái. Hôm qua tôi nghĩ đến chuyện này khi tới thăm Mary Delafontaine ở bệnh viện. Tóc cô ta cũng rụng như tóc tôi trước đây. Chắc chắn là cô ấy phải mang mớ tóc giả khi ra viện. Tới sáu mươi tuổi thì không thể mọc lại được nữa.
- Tối hôm nọ tôi trông thấy một cô gái giật tóc của một cô khác - tôi nói bằng một giọng thoả mãn của một người hiểu rõ cuộc sống.
- Khi ấy anh đang ở một chốn kỳ lạ nào vậy?
- Ở Chelsea, trong một quán cà phê.
- Ồ, Chelsea! Ở đấy thì mọi chuyện đều có thể xảy ra, tôi hình dung ra như vậy. Nhưng tôi không viết về chốn này bao giờ. Tôi sợ rằng tôi không dùng được những danh từ phù hợp. Theo tôi, tốt nhất là nên giới hạn ở những cái mọi người đều biết về nó. Nhưng bây giờ tôi muốn anh dẫn tôi đến một tiệm nhảy ở Chelsea nếu có cơ hội.
- Khi nào cô muốn đi, tối nay chăng?
- Không. Tôi đang bận viết hay nói đúng hơn là đang tự dày vò mình vì không viết được. Nói xem, anh Mark, anh có nghĩ rằng người ta có thể giết người từ xa không?
- Cô nghĩ gì về chuyện này? Bằng cách ấn vào một cái nút? Bằng tia chết. ..?
- Không, không, đây không phải là khoa học viễn tưởng - Cô ngừng lại nghĩ ngợi - Tôi nghĩ đến ma thuật đen tối.
- Dùng những pho tượng bằng sáp, găm bằng kim găm?
- Ồ, đã lỗi thời rồi - Oliver nói bằng giọng khinh bỉ - Nhưng có những chuyện lạ lùng đã xảy ra ở châu Phi và quần đảo Antilles. Người ta chỉ cần nói tên những người bản xứ và những người này chết ngay lập tức. Đó là dạo Vaudou hay là... rút cuộc anh đã thấy điều tôi muốn nói rồi chứ?
- Bây giờ thì người ta gán những việc ấy cho cái năng lực, ám thị. Người ta nói cho nạn nhân được chỉ định rằng cái chết của hắn được quyết định do con người - thầy thuốc... và cái tiềm thức làm công việc còn lại.
Oliver khịt mũi khinh bỉ.
- Có một người nào bảo tôi là tôi bị bắt buộc phải nằm để đợi chết thì tôi sẵn sàng chống lại kế hoạch của hắn.
Tôi cười.
- Mạch máu của cô đã cuốn trôi một thứ máu mang theo chủ nghĩa hoài nghi trong nhiều thế kỷ của phương Tây. Cô thiếu những thiên hướng.
- Như vậy anh cho rằng cái đó có thể có?
- Tôi chưa hiểu rõ vấn đề để có thể xem xét. Ai đã nhồi nhét cái đó vào đầu cô nhỉ? Tác phẩm sắp tới của cô có mang đầu đề "Giết người bằng ám thị " không?
- Không. Thật vậy. Từ thuốc diệt chuột cũ kỹ hay là từ thạch tín đối với tôi là đủ rồi. Hay là bằng một dụng cụ có thể dùng để đánh cũng tạm được. Không cần vũ khí nổ nếu không thật cần thiết, cái đó thật là xảo quyệt. Nhưng anh không tới đây để nói về những cuốn sách của tôi đấy chứ?
- Thật thà là không... có một việc. Bà chị họ Rhoda Despard của tôi tổ chức một ngày hội từ thiện và…
- Không bao giờ! Anh có biết cái gì đã xảy ra vào ngày hội cuối cùng mà tôi đã tham dự không? Tôi thu xếp cuộc săn lùng một kẻ giết người và kết quả là người ta tìm thấy một xác người thực. Tôi không bao giờ yên tâm về việc đó.
- Ở đây không có cái gì giống như vậy. Tất cả những cái cô có thể làm được thì đó chỉ là ký tên vào các tác phẩm của mình... năm hào một chữ ký.
- Ồ… ai đó thì có thể được. Tôi không phải nói lời khai mạc, không phải nói những lời bậy bạ hoặc phải đội một chiếc mũ chứ?
Tôi làm cô yên tâm: người ta không đòi hỏi cô phải làm gì trong những công việc đó cả.
- Và cái đó chỉ diễn ra trong một hoặc hai tiếng đồng hồ là cùng - Tôi dụ dỗ - Sau đó có một cuộc thi đấu về khúc côn cầu, vì đây là mùa thi đấu trong năm. Có thể có cuộc khiêu vũ của thiếu niên, một cuộc thi thời trang.
Oliver ngắt lời tôi bằng một tiếng kêu man rợ.
- Đấy - Cô ta nói - "Một quả cầu”. Rất tự nhiên. Hắn trông thấy một quả cầu, qua cửa sổ... Bay lên không trung... cái đó làm hắn chú ý và hắn không trông thấy một con vẹt nào nữa. May mắn biết bao vì anh đã tới. Mark! Anh rất cừ.
- Tôi không hiểu...
- Anh, có thể là anh không hiểu, nhưng tôi thì có thể. Tôi không muốn mất thời gian để giải thích cho anh. Tôi đã thú vị vì gặp lại anh, nhưng bây giờ thì tôi rất thích nếu anh ra về ngay lập tức.
- Chắc chắn là như vậy. Còn về ngày hội...
- Tôi sẽ nghĩ đến nó. Đừng làm phiền tôi. Tôi đã ném cặp kính của tôi đâu rồi? Thật là không thể tưởng tượng nổi cái cách mà đồ đạc biến đâu mất...
Khi Mark gặp Corrigan, một bác sĩ pháp y bạn anh, anh lại được bạn cho xem một danh sách những cái tên tìm thấy trong đôi giày của cha Gorman, người cũng vừa bị giết chết sau khi đến rửa tội cho một phụ nữ đang hấp hối. Trong đó có tên của phu nhân Hesketh-Dubois, mẹ đỡ đầu của anh, người vừa qua đời gần đây, và tên của Thomasina Tuckerton, cô gái mà anh vừa đọc tin cáo phó trên báo. Anh bắt đầu cảm thấy lo sợ và nghĩ rằng những người có tên trong bản danh sách kia là những người có cái chết đã được báo trước…
Chiếc bình pha cà phê chạy điện đặt phía sau lưng tôi rít lên như một con rắn đang giận dữ. Tiếng động tự nó có vẻ như là một cái gì thê thảm và gần như là ma quái. Tôi nghĩ rằng trong thời đại của chúng ta có biết bao nhiêu âm thanh làm chúng ta khó chịu như tiếng rú của máy bay phản lực, tiếng gầm điếc tai, doạ nạt của tàu điện ngầm khi ra khỏi đường hầm, tiếng của những vật nặng đi qua làm rung chuyển nhà cửa... cho đến tiếng kêu của những máy móc dùng trong gia đình như tủ lạnh, máy hút bụi... cũng vậy. Hình như chúng nói: "Coi chừng, chúng ta là những vị thần bị buộc chân để phục vụ các người, nếu các người không thể kiểm soát nổi chúng ta và... ". Ôi một thế giới có biết bao nhiêu là nguy hiểm!
Tôi quấy một thứ nước đặc sánh trong một chiếc tách đặt trước mặt. Mùi thơm thật là dễ chịu.
- Chỉ dùng có vậy sao, thưa ngài? Một chiếc bánh kẹp thịt, vài quả chuối là một miếng thịt lợn hun khói nữa chứ? Cách ăn uống hỗn tạp như vậy quả là lạ lùng đối với tôi. Nhưng tôi đã ngồi trong một quán rượu ở Chelsea cũng như đã thích ứng được với những thói quen ở đây. Tôi nhận một chiếc bánh kẹp thịt mà nhà hàng đã mời chào.
Tuy đã là dân sống ở Chelsea, từ ba tháng nay, trong một căn hộ đủ tiện nghi, nhưng tôi còn xa lạ với nó về nhiều mặt. Tôi đang viết một cuốn sách nói về khoa kiến trúc của Mông Cổ, và để làm được việc đó đáng lẽ tốt hơn cả là tôi có thể sống ở Hampstead hoặc ở Bloomsbury. Môi trường sống của tôi thì lại hoàn toàn khác hẳn: tôi sống trong cái vũ trụ của cá nhân tôi.
Tối hôm nay tôi lâm vào một trong những cơn buồn chán thường thấy của các nhà văn.
Khoa kiến trúc Mông Cổ, các vị hoàng đế Mông Cổ và tất cả những đặc điểm của cuộc sống Mông Cổ đột nhiên đối với tôi chỉ còn là bụi bậm và tàn tro. Chúng có liên quan gì đến tôi? Tại sao tôi lại muốn viết về chúng?
Tôi chối bỏ làm việc. Hình như nó không còn là hay ho đối với tôi nữa, nó nghèo nàn về văn phong và mất hết lý thú.
Tôi ném bản thảo đi và đưa mắt nhìn chiếc đồng hồ quả quít. Đã mười một giờ khuya. Tôi đã ăn tối chưa nhỉ? Chưa, cái dạ dày của tôi trả lời. Còn bữa lót dạ thì đã lâu lắm rồi.
Trong tủ lạnh của tôi chỉ còn một miếng lưỡi lợn khô cứng mà tôi chẳng muốn đụng đến chút nào. Do đó tôi xuống đường King's và bước hú hoạ vào một quán cà phê có biển treo, đề tên chủ quán “Luigi" ghép bằng những bóng đèn huỳnh quang màu đỏ.
Ngồi trước chiếc bánh kẹp thịt, vài quả chuối và miếng thịt lợn hun khói, tôi nghĩ về những tiếng động trong cuộc sống hiện đại, về những cái xấu luôn luôn trội hơn những cái tốt, về sự bền vững để giành chiến thắng
Chiếc bình pha cà phê chạy điện vẫn réo bên tai. Tôi gọi một tách cà phê nữa và liếc nhìn xung quanh. Một trong các chị gái tôi đã nói là đừng bao giờ trở thành người quan sát. Lúc này tôi chăm chú quan sát tất cả.
Trong quán ánh sáng lù mù, nhìn không rõ. Khách hàng gồm hầu hết là những người trẻ tuổi. Tôi thấy các cô gái thường là bẩn thỉu như mọi cô gái ngày nay. Hình như các cô mặc quá nhiều quần áo. Một vài tuần lễ trước đây, tôi đã chú ý đến điều này trong khi đi ăn sáng với các bạn tôi. Cô gái ngồi gần tôi khoảng hai chục tuổi, dù trời không lạnh lắm, cô cũng mặc một chiếc săng-đay dày, màu vàng, một chiếc váy đen ra một đôi tất len đen. Mặt cô loáng ướt vì mồ hôi, người có toả ra một mùi len ngấm nhiều mồ hôi và mùi tóc lâu ngày không gội. Theo các bạn tôi thì cô ta là người rất quyến rũ. Còn tôi, tôi chỉ có một ý đỉnh là ném cô vào một bể nước nóng cùng với một miếng xà phòng và ra lệnh cho cô kỳ cọ thật kỹ! Tôi nghĩ rằng, về một điểm nào đó, tôi ít thích nghi với thời đại của mình. Tôi tưởng nhớ một cách thú vị về những cô gái theo đạo Hindu với những mớ tóc đen mượt, những chiếc váy màu sặc sỡ, có nhiều nếp rất duyên dáng theo từng cử động của thân thể.
Một tiếng động mạnh kéo tôi ra khỏi những kỷ niệm êm đềm đó. Hai cô gái ngồi bàn bên cãi nhau. Bạn bè khuyên giải nhưng không kết quả.
Bất thình lình, một cô tát cô kia đang cố gắng giật chiếc ghế của mình đang ngồi. Họ úm nhau như những chị hàng cá và thét lên những lời tục tĩu. Một cô tóc màu hung rối bù, cô kia tóc màu hoe cứng đờ.
Những tiếng kêu động viên nổi lên ở các bàn khác.
- Lại đây! Cho nó một trận, Lou!
Đứng cuối sàn nhảy, người vô can là Luigi, một người gốc Ý, giọng trọ trẹ, can thiệp:
- Ê, đằng kia, chà! Như thế đủ rồi! Cảnh sát sẽ đến tóm cổ các cô. Đủ rồi. Tôi bảo các cô!
Nhưng cô tóc hung đã túm tóc cô tóc hoe và điên cuồng giật mạnh.
- Mày chỉ là một con đĩ! Một con đĩ cướp chồng người!
- Con đĩ chính là mày đấy!
Luigi và các vệ sĩ của hai cô kéo họ ra. Cô tóc hung giơ cao mớ tóc màu hoe đẹp trong tay lên với một vẻ chiến thắng rồi ném nó xuống đất.
Bất chợt cửa mở và một người cảnh sát đại diện cho chính quyền đứng sững ở ngưỡng cửa.
- Ở đây xảy ra chuyện gì vậy?
Lập tức mọi người lập thành một mặt trận để chống lại kẻ thù chung:
- Người ta vui đùa - Một trong những trai trả lời.
- Đúng - Luigi nhấn mạnh - Bạn bè họ vui đùa với nhau.
Anh ta lấy chân đá nắm tóc vào gầm bàn. Những người có liên quan tới vụ ẩu đả nhìn nhau cười ngượng ngùng trước cặp mắt nghi ngờ của viên cảnh sát.
Như là một sự tình cờ, các khách hàng khác cho rằng đi khỏi quán lúc này là tốt hơn cả. Người cảnh sát đưa mắt nhìn theo họ: "Cái đó, lần này thôi. Nhưng… các người sẽ được chú ý". Sau đó anh ta bỏ đi.
Người vệ sĩ của cô gái tóc hoe thanh toán tiền.
- Có đau không? - Luigi hỏi cô gái đang buộc lại khăn quàng dưới cằm.
Luigi đã xen vào câu chuyện của cô một cách xấu xa. Họ đã giật tóc cô.
- Ô, cái đó không làm tôi đau - Cô lơ đãng trả lời. Cô cười với người chủ quán - Tha lỗi cho chúng tôi, Luigi.
Họ đi ra. Quán vắng tanh. Tôi tìm tiền.
- Có thể nói là cô ta nổi khùng - Luigi nhận xét.
Anh ta cầm cái chổi, quét hất những lọn tóc vào gầm quầy hàng.
- Cái đó thật là tàn bạo - Tôi nói.
- Nếu là tôi thì tôi đã kêu thét lên rồi - Luigi nói thêm - Nhưng cái cô Tommy ấy, cô ta đã lên cơn khùng.
- Anh biết rõ cô ấy chứ?
- Cô ta hầu như tối nào cũng có mặt ở đây. Tên cô ta là Tuckerton. Thomasina Tuckerton. Nhưng ở đây người ta gọi cô là Tommy Tucker. Cô ta có vô khối tiền. Ông già cô để lại cho cô cả một gia tài. Và cô ta đã làm gì? Cô ta sống trong một căn phòng bẩn thỉu trên đường Wandsworth Bridge và đi lang thang với một nhóm người như cô. Cái đó làm tôi sửng sốt đến ngã người ra. Họ có nhiều tiền. Họ có thể mua bất cứ cái gì, trọ cả trong khách sạn Ritz nếu họ muốn, nhưng cách sống ấy hình như đã lôi cuốn họ. Tôi thì tôi cắt đứt ngay cái kiểu sống như vậy.
Tôi hỏi anh ta về lý do của cuộc cãi đánh nhau.
- Ờ, cô Tommy đã nẫng tay trên người bạn trai của cô kia. Không cần phải đánh chửi nhau, xin ngài hiểu ý tôi là như vậy!
Một tuần lễ sau, trong mục tin buồn của báo Times có một tên người làm tôi chú ý: Tuckerton.
"Ngày hai, tháng mười, tại bệnh viện Fallowfield ở Amberly. Cô Thomasina Ann, hai mươi tuổi, ái nữ duy nhất của Ngài Thomas Tuckerton quá cố, ở quảng trường Carrington, khu Amberly, Surrey. Tang lễ trong phạm vi thân tình. Không mang theo hoa ".
Không có hoa cho cô Tommy Tucker khốn khổ và cũng không còn "sự kích động" ở khu Chelsea nữa. Một sự thương xót thoáng qua cho những cô Tommy Tucker lúc này xâm chiếm tâm hồn tôi. Nhưng cuối cùng thì ai có thể xác nhận rằng cách nhìn của tôi là đúng. Có phải là tôi đã để lãng phí cuộc đời mình bằng cách chìm ngập vào những cuốn sách đó không?
Tôi xua đuổi hình ảnh Tommy Tucker ra khỏi tâm trí tôi và xem tiếp những thư, báo mới nhận được.
Lá thư quan trọng là thư của người chị con ông bác tôi tên là Rhoda Despard nhờ tôi giúp chị một việc. Tôi vui vẻ đón nhận dịp may đó để khỏi phải làm việc và ra khỏi nhà.
* * *
Tôi gọi một chiếc taxi đưa tôi đến nhà của một trong những bạn gái của tôi là Ariadne Oliver, một tác giả có tên tuổi về truyện trinh thám. Người hầu phòng của cô, bà Milly, là một con rồng dữ tợn canh phòng mọi cuộc tấn công từ thế giới bên ngoài. Bà ra mở cửa khi nghe thấy tiếng chuông gọi cửa của tôi.
Tôi rướn lông mày lên hỏi. Bà Milly lắc đầu.
- Mời ông lên, thưa ông Mark - Bà ta nói - Sáng hôm nay bà chủ tôi đang cau có. Ông có thể giúp bà ấy bớt bực mình chăng.
Tôi lên hai tầng lầu, gõ nhẹ vào một cánh cửa và đẩy nó để bước vào phòng mà không đợi trả lời.
Phòng làm việc của Oliver là một căn phòng rộng, trên tường dán giấy có hình vẽ những con chim lạ, nấp dưới những lá cây nhiệt đới. Oliver bắt đầu có vẻ có những hành động điên rồ, đang đi đi, lại lại và nói chuyện một mình. Cô ta nhìn tôi nhưng không chú ý mà vẫn tiếp tục bước, thỉnh thoảng nhắm mắt lại như đang bị đặt dưới quyền lực của một sự đau đớn ghê gớm.
- Nhưng tại sao - Cô ta nói - Tại sao cái thằng ngu dốt ấy lại không... nói ngay rằng nó đã trông thấy một con vẹt có mào? Tại sao? Nó không thể không trông thấy con vật ấy ư? Nhưng nếu hắn nói ra thì tất cả sẽ sụp đổ. Phải có một cách... phải...
Cô ta càu nhàu, tay vừa nắm lấy những sợi tóc xám vừa giật ra. Thế rồi, bất chợt cô ta nhìn thấy tôi.
- … Chào Mark! Tôi điên lên mất. Thế rồi cả cô ả Monica nữa! Tôi càng cố làm cho cô ả trở thành dễ thương thì cô ta lại càng tỏ ra rụt rè, tỏ ra là một cô gái ngu đần và phàm tục đến như thế! Monica... Monica? Có lẽ là do vấn đề đặt tên... Susan ư? A! Tôi đã có một cái tên... Lucia chăng? Lucia? Hình như tôi đã trông thấy cô ta, chính cô ta! Một cô tóc hoe, bộ đồ đen bó sát người? Đi tất len trong mọi thời tiết?
Cái ý nghĩ về con vẹt có mào bị xáo đi nhanh chóng trong giây phút hứng khởi đó và Oliver lại tiếp tục đi dạo, trong khi đi tay cô cầm nhưng mắt không thèm nhìn những đồ chơi nho nhỏ mà cô đã để rải rác trong phòng. Sau đó cô ta đặt kính đeo mắt vào một chiếc hộp sơn mài trong đó đã có một chiếc quạt Trung Quốc, rồi cô thở dài đánh thượt.
- Tôi rất sung sướng rằng đây là anh.
- Cô thật đáng mến.
- Cái đó có thể đến với tất cả những ai không muốn và câu chuyện về con vẹt có mào đã làm tôi phát điên.
- Phải, nhiều khi do cách trình bày không đạt, tôi lưu ý cô. Có lẽ tốt hơn cả là tôi về.
- Không, anh đừng về. Dù sao anh cũng đã làm tôi được vui vẻ.
Tôi nuốt lấy những lời khen một cách êm ái.
- Anh có muốn hút thuốc lá không? Nó ở đâu đấy. Anh tìm trong cái nắp đậy máy chữ xem.
- Cám ơn. Tôi có thuốc của tôi rồi. Cô hút đi. Ơ! Đúng là cô không hút thuốc.
- Cũng không uống cả rượu nữa, tôi rất tiếc về cái đó. Cái đó có thể kết luận mọi vấn đề với những chàng thám tử Mỹ ấy, bao giờ họ cũng có một chai rượu mạnh mang trong người. Anh có biết không, Mark, tôi tự hỏi là trong cuộc sống tại sao có những người trốn thoát khi họ đã giết người. Tôi có cảm giác là cái đó ngay lập tức đã rõ ràng.
- Thật là buồn cười. Cô đã nhiều lần phạm cái tội đó, về phần cô.
- Ít nhất là trong năm mươi lăm cuốn truyện của tôi. Việc giết người tự nó là dễ dàng. Che giấu nó mới là khó khăn. Và đối với tôi thì thật là kinh khủng.
- Cô đã thành công năm mươi lăm lần, cô sẽ thành công một lần nữa.
- Đó là cái tôi thường nhắc nhở mình. Nhưng mỗi khi tôi không tin tưởng như vậy, tôi đau đớn như kẻ chết vì nghĩa cả.
Cô ta lại nắm lấy tóc và giật mạnh.
- Dừng lại! - Tôi kêu lên - Cô giật hết tóc mất.
- Thật là ngốc nghếch. Một sợi tóc rất khó giật. Tuy nhiên năm mười hai tuổi, tôi bị bệnh đậu mùa với một cơn sốt dữ dội. Tóc ở trước trán rụng hết. Phải mất sáu tháng tóc mới mọc lại. Thật là đáng sợ đối với một người con gái. Hôm qua tôi nghĩ đến chuyện này khi tới thăm Mary Delafontaine ở bệnh viện. Tóc cô ta cũng rụng như tóc tôi trước đây. Chắc chắn là cô ấy phải mang mớ tóc giả khi ra viện. Tới sáu mươi tuổi thì không thể mọc lại được nữa.
- Tối hôm nọ tôi trông thấy một cô gái giật tóc của một cô khác - tôi nói bằng một giọng thoả mãn của một người hiểu rõ cuộc sống.
- Khi ấy anh đang ở một chốn kỳ lạ nào vậy?
- Ở Chelsea, trong một quán cà phê.
- Ồ, Chelsea! Ở đấy thì mọi chuyện đều có thể xảy ra, tôi hình dung ra như vậy. Nhưng tôi không viết về chốn này bao giờ. Tôi sợ rằng tôi không dùng được những danh từ phù hợp. Theo tôi, tốt nhất là nên giới hạn ở những cái mọi người đều biết về nó. Nhưng bây giờ tôi muốn anh dẫn tôi đến một tiệm nhảy ở Chelsea nếu có cơ hội.
- Khi nào cô muốn đi, tối nay chăng?
- Không. Tôi đang bận viết hay nói đúng hơn là đang tự dày vò mình vì không viết được. Nói xem, anh Mark, anh có nghĩ rằng người ta có thể giết người từ xa không?
- Cô nghĩ gì về chuyện này? Bằng cách ấn vào một cái nút? Bằng tia chết. ..?
- Không, không, đây không phải là khoa học viễn tưởng - Cô ngừng lại nghĩ ngợi - Tôi nghĩ đến ma thuật đen tối.
- Dùng những pho tượng bằng sáp, găm bằng kim găm?
- Ồ, đã lỗi thời rồi - Oliver nói bằng giọng khinh bỉ - Nhưng có những chuyện lạ lùng đã xảy ra ở châu Phi và quần đảo Antilles. Người ta chỉ cần nói tên những người bản xứ và những người này chết ngay lập tức. Đó là dạo Vaudou hay là... rút cuộc anh đã thấy điều tôi muốn nói rồi chứ?
- Bây giờ thì người ta gán những việc ấy cho cái năng lực, ám thị. Người ta nói cho nạn nhân được chỉ định rằng cái chết của hắn được quyết định do con người - thầy thuốc... và cái tiềm thức làm công việc còn lại.
Oliver khịt mũi khinh bỉ.
- Có một người nào bảo tôi là tôi bị bắt buộc phải nằm để đợi chết thì tôi sẵn sàng chống lại kế hoạch của hắn.
Tôi cười.
- Mạch máu của cô đã cuốn trôi một thứ máu mang theo chủ nghĩa hoài nghi trong nhiều thế kỷ của phương Tây. Cô thiếu những thiên hướng.
- Như vậy anh cho rằng cái đó có thể có?
- Tôi chưa hiểu rõ vấn đề để có thể xem xét. Ai đã nhồi nhét cái đó vào đầu cô nhỉ? Tác phẩm sắp tới của cô có mang đầu đề "Giết người bằng ám thị " không?
- Không. Thật vậy. Từ thuốc diệt chuột cũ kỹ hay là từ thạch tín đối với tôi là đủ rồi. Hay là bằng một dụng cụ có thể dùng để đánh cũng tạm được. Không cần vũ khí nổ nếu không thật cần thiết, cái đó thật là xảo quyệt. Nhưng anh không tới đây để nói về những cuốn sách của tôi đấy chứ?
- Thật thà là không... có một việc. Bà chị họ Rhoda Despard của tôi tổ chức một ngày hội từ thiện và…
- Không bao giờ! Anh có biết cái gì đã xảy ra vào ngày hội cuối cùng mà tôi đã tham dự không? Tôi thu xếp cuộc săn lùng một kẻ giết người và kết quả là người ta tìm thấy một xác người thực. Tôi không bao giờ yên tâm về việc đó.
- Ở đây không có cái gì giống như vậy. Tất cả những cái cô có thể làm được thì đó chỉ là ký tên vào các tác phẩm của mình... năm hào một chữ ký.
- Ồ… ai đó thì có thể được. Tôi không phải nói lời khai mạc, không phải nói những lời bậy bạ hoặc phải đội một chiếc mũ chứ?
Tôi làm cô yên tâm: người ta không đòi hỏi cô phải làm gì trong những công việc đó cả.
- Và cái đó chỉ diễn ra trong một hoặc hai tiếng đồng hồ là cùng - Tôi dụ dỗ - Sau đó có một cuộc thi đấu về khúc côn cầu, vì đây là mùa thi đấu trong năm. Có thể có cuộc khiêu vũ của thiếu niên, một cuộc thi thời trang.
Oliver ngắt lời tôi bằng một tiếng kêu man rợ.
- Đấy - Cô ta nói - "Một quả cầu”. Rất tự nhiên. Hắn trông thấy một quả cầu, qua cửa sổ... Bay lên không trung... cái đó làm hắn chú ý và hắn không trông thấy một con vẹt nào nữa. May mắn biết bao vì anh đã tới. Mark! Anh rất cừ.
- Tôi không hiểu...
- Anh, có thể là anh không hiểu, nhưng tôi thì có thể. Tôi không muốn mất thời gian để giải thích cho anh. Tôi đã thú vị vì gặp lại anh, nhưng bây giờ thì tôi rất thích nếu anh ra về ngay lập tức.
- Chắc chắn là như vậy. Còn về ngày hội...
- Tôi sẽ nghĩ đến nó. Đừng làm phiền tôi. Tôi đã ném cặp kính của tôi đâu rồi? Thật là không thể tưởng tượng nổi cái cách mà đồ đạc biến đâu mất...
Danh sách chương