Serena cảm thấy như cứng người lại tê liệt ngay cả khi tim đập thình thịch và sự kinh hoàng bởi những gì xảy ra làm nàng choáng váng kinh sợ. Nàng gần như nài xin sự lãng quên sao cho cảnh tượng dòng máu đỏ thẫm từ miệng tên buôn lậu có thể ngừng lại, sao cho nàng có thể làm trật cái nhìn khỏi đôi mắt mờ đục đang trong màn sương chết chóc. Vài giọng nói bên trong nói rằng nàng phải làm gì đó giúp hắn, cố gắng làm ngưng máu chảy; nhưng nàng không thể di chuyển, cơ thể đang chống lại ý muốn của nàng.
Rồi bà hầu tước quay lại, gương mặt bà thể hiện sự tàn nhẫn, độc ác không hề che đậy làm Serena muốn không chỉ òa khóc mà còn bỏ chạy, thoát khỏi nỗi sợ con người quá sa đọa đến mức có thể hân hoan vì giết người. Mắt bà hầu tước sáng lấp lánh, má bà ửng màu sắc của sự phấn khích, rồi bà hất đầu lại ngang ngược như thể muốn đối mặt với toàn thể thế giới và hoàn toàn không hề sợ hãi.
“Lại đây, bé con,” bà bảo, và giọng bà ngân lên du dương, “Phải quay lại với các vị khách của chúng ta thôi.”
Serena chỉ có thể chăm chăm nhìn bà, và nửa như nôn nóng, nửa đùa cợt, bà hầu tước vươn tay ra, nắm lấy khuỷu tay nàng, rời khỏi hang nơi những ngọn đuốc hung tợn vẫn xèo xèo chiếu sáng đối lập với khoảng tối của hành lang. Những ngón tay bà khỏe và quyết đoán như thép. Chúng cũng ấm nữa, và Serena cảm thấy được cả năng lượng và sự kích thích đang rung động qua chúng.
Có vẻ như hành động nhanh lẹ, giết người, quyết đạt được mục đích đã làm tuổi trẻ bốc đồng và táo bạo hồi sinh trong nữ hầu tước. Bà căng đầy sức sống, nóng ran sức quyến rũ làm cho trong giây lát bà trông đê mê vì niềm đam mê được đền đáp. Bà trông hệt như trong những ngày hoàng kim của sắc đẹp khi bà nằm thỏa mãn và mê mẩn trong tay của một người tình đầy thèm muốn.
Tay bà nửa kéo, nửa lê người Serena, nữ hầu tước đi nhanh xuống hành lang ngầm. Chân Serena vô thức bước theo bà. Trong lúc đó nàng ngừng suy luận, ngừng suy nghĩ, chỉ thấy được nỗi kinh hoàng không thể tả nổi và sự giá lạnh đang xâm nhập tới tận xương.
Trong lúc họ đi, bà hầu tước dừng lại tại từng ngọn nến đang bập bùng và tắt chúng. Họ trèo qua những bậc đá dốc bên nhau trong im lặng. Bà hầu tước vẫn giữ tay Serena và tiếp tục như vậy tới đoạn cuối của hành lang nơi dẫn họ tới tấm ván ốp trượt và trở lại toà nhà.
Họ bước vào trong ánh sáng và hơi ấm, tấm ván ốp bí mật đóng lại sau lưng, Serena cảm thấy như mình vừa thức dậy sau cơn ác mộng tồi tệ. Quầng sáng vàng nhạt của những ngọn nến, thành cầu thang chạm khắc bóng nhoáng và những bức tường ốp ván gỗ, tấm thảm dày màu đỏ và xanh dương là những dấu mốc quen thuộc đằng sau sự kỳ quặc ẩn giấu của ngọn lửa dữ tợn, bóng tối màu tía, của những tảng đá ẩm ướt, xù xì. Ở đây thật khó tin có những mánh khóe xấu xa, đam mê bạo lực và sự khát máu giết người.
Rúng động, Serena đưa tay lên trán. Bà hầu tước nhìn nàng với cặp mắt khe khắt và đôi môi khinh khỉnh trước sự yếu đuối nhường đó.
“Bình tĩnh lại đi, cô gái,” bà cao giọng nói. “Chẳng còn thời giờ nữa. Đó là một tên xỏ lá kém cỏi trên đời, chẳng ai nhớ hắn.”
“Nhưng, phu nhân... phu nhân...” Serena lắp bắp, và giọng nàng vỡ ra, lạ lùng ngay với chính tai nàng.
Bà hầu tước ngả đầu ra sau, ánh nến chiếu lấp lánh những trang sức quanh cổ và lóng lánh bên tai bà.
“Ghê quá, ngươi thật là gan thỏ đế. Ta đã nghĩ có dòng máu tốt hơn chảy trong huyết quản ngươi, nhưng xem ra ta đã lầm.”
Bất giác Serena phản ứng với những vẻ châm chích trong lời nói và giọng điệu của bà. Không đáp lại, nàng vươn thẳng vai và giữ cằm vênh cao hơn chút.
“Lại đây, thế tốt hơn,” bà hầu tước động viên. “Véo má ngươi đi, bé con, sao cho chúng có sắc một chút, hay là ta đi loan báo rằng ngươi vừa gặp ma.”
Bà phá lên cười với câu nói đùa của mình còn Serena rùng mình trước âm thanh đó. Nàng đã nghe rất nhiều về ma từ khi tới Mandrake, và giờ có lẽ lại thêm một linh hồn nữa đi lại giữa những hành lang tối tăm tìm kiếm thân xác bị thương và lạc mất của gã.
Một tên lừa đảo và buôn lậu, nhưng gã là con người, một con người đã sống, đã hít thở và tồn tại trên cõi đời này. Giờ đây máu của gã, chỉ ít phút trước còn ấm, đã thấm vào bùn ướt và biển sẽ nhanh chóng vùi thân xác gã vào lòng biển lạnh lùng. Serena tự nhiên cảm thấy một sự thôi thúc quay trở lại, đứng bên kẻ hấp hối đó. Nếu như nàng không thể làm được điều gì, ít nhất nàng cũng có thể cầu nguyện cho gã.
Nhưng quá muộn rồi, bà hầu tước đã bước lên cầu thang, Serena hiểu nàng phải theo bà ta. Trong một vài giây ngắn ngủi, chỉ có tiếng sột soạt của váy áo và tiếng bước chân họ nhẹ nhàng trên bậc thang. Rồi họ tới tầng thứ nhất, Serena rút tay ra cầu xin.
“Xin người, phu nhân,” nàng nói, “cho tôi đi nghỉ?”
Bà hầu tước cau mày nhìn nàng.
“Tất nhiên là không, đứa bé ngu ngốc; ngươi quá nhát gan đến mức không hiểu rằng chúng ta phải trở lại phòng khách cùng nhau sao? Sự vắng mặt của chúng ta sẽ gây sự chú ý, nhưng chúng ta vừa ở phòng ngủ của ta để sửa sang khuôn mặt. Lại đây và ngừng việc lo lắng đó đi. Mất đi một tên buôn lậu côn đồ không hề gì, ta dám chắc với ngươi.”
Vừa nói, bà hầu tước vừa khoác lấy tay Serena và nàng biết nó giam cầm mình chắc chắn như xiềng xích. Họ băng qua tầng thứ nhất và đến đầu trên của Cầu thang lớn. Khi họ bắt đầu xuống, bà hầu tước nói bằng một giọng cao và lớn tiếng:
“Ta thề là vận may của ta sẽ thay đổi. Ta sẽ thắng. Ta có thể cảm thấy vận may ở ngay đầu ngón tay ta.”
Bà đang nói để lấy hiệu ứng. Serena bất chợt hiểu ra điều đó, và rồi nàng thấy phía dưới họ, đi từ hướng sàn dạ tiệc là một nhóm vài người đàn ông – lính phòng vệ bờ biển, kỵ binh và hầu tước Vulcan đứng với họ. Bà hầu tước làm ra vẻ không thấy thứ gì, nhưng Serena cảm nhận được sức ép bất ngờ từ các ngón tay bà và sự cảnh giác căng thẳng của toàn cơ thể bà cho thấy đó chỉ là sự giả vờ. Giọng bà hầu tước phớt nhẹ khi bà tiếp tục:
“Trời, nhưng cờ bạc là một nghề may rủi. Con có thể thực sự may mắn nếu nó chưa liên quan tới con, Serena yêu quý. Nhưng ta cũng nghe nhiều người nói rằng hôn nhân cũng như trò may rủi vậy.”
Họ tới những bậc cuối cùng của Cầu thang lớn, và với tiếng kêu khe khẽ đầy ngạc nhiên, bà hầu tước nhìn đám đàn ông đang tiến lên phía sảnh.
“Ôi ôi, có thêm khách!” bà kêu lên. Rồi nhìn con trai bà thêm, “Bạn con à, Justin?”
“Vâng, những người bạn, thưa mẹ,” hầu tước nghiêm trang trả lời; “”nhưng không may là họ tới thăm chúng ta vì công việc chứ không vì vui vẻ. Con xin giới thiệu sĩ quan đương trách, trung úy Delham?”
Một thanh niên trẻ mặt đỏ phừng phừng trong bộ đồng phục kỵ binh hơi ngại ngùng cúi chào.
“Tôi rất vui mừng được biết ngài, trung úy,” bà hầu tước nói. “Ngài sẽ tham dự một trò chơi may rủi với chúng tôi chăng?”
“Thật không may, thưa phu nhân, tôi đến đây vì nhiệm vụ,” viên trung úy đáp lời. “Lính phòng vệ bờ biển báo cáo họ đã thấy một con tàu ở ngay chân vách tòa nhà bà. Tôi tới đây xin phép được lục soát khu vườn của bà và cũng để tìm hiểu xem liệu bà có biết gì về một nơi neo đậu nơi tàu thuyền có thể thả neo và dỡ hàng không.”
Mắt bà hầu tước trợn tròn kinh ngạc.
“Một con tàu! Ở đây!” bà kêu lên, hết nhìn người này lại sang người khác. “Nhưng các ngài nghi ngờ điều gì?”
“Buôn lậu, thưa phu nhân.”
Bà hầu tước hét lên.
“Những tên buôn lậu! La, nhưng tôi cho rằng đó là ý nghĩ đáng hồi hộp. Những tên buôn lậu ở Mandrakes! Con nghĩ gì về chuyện này hả Justin?”
“Con ngờ rằng đây chỉ là câu chuyện hão huyền,” anh lặng lẽ nói; “như trung úy Delham vừa nói, các vách đá rất nguy hiểm và tàu thuyền khó lòng mà đậu được.”
“Ôi, nhưng chúng ta hãy cầu nguyện là chúng có thể làm được điều đó!” bà hầu tước kêu lên, vỗ tay vào nhau. “Tôi hứa với ngài, trung úy, là tôi sẽ không bao giờ thỏa mãn cho đến khi tôi nhìn được tàu hàng của chúng. Nó có gì nhỉ, hãy nghĩ xem? Đăng ten? Ruy băng? Vải nhung cho bộ váy mới? Và có thể một hay hai chai rượu Pháp? Thật là xấu hổ cho ngài, trung úy, và các quý ông đi cùng, khi tìm cách làm hỏng trò chơi có bao nhiêu lợi ích cho cộng đồng!”
Có tiếng cười hô hố cất lên sau đó; nhưng bà hầu tước làm sững sờ những người nghe bằng nụ cười tươi rói, tiếp tục: “Các ngài có thể cười, nhưng đừng làm gì ghê gớm, những người đàn ông đạo đức khắt khe, chỉ chăm chăm thi hành luật phát, có nhớ tới nhu cầu của những người phụ nữ yếu đuối chúng tôi chăng? Mọi thứ chúng tôi cần đều trở nên đắt đỏ hơn sau chiến tranh, không kể là thường xuyên hiếm hoi. Hãy nghĩ tới chúng tôi cố gắng duy trì làm những người xinh đẹp quyến rũ mà không có một chút hỗ trợ ”
“Nếu chúng tôi bắt được những tên buôn lậu, thưa phu nhân, tôi sẽ cho bà hay tàu chúng có gì,” trung úy Delham đáp.
“Đó là lời hứa đấy nhé!” bà hầu tước kêu lên. “Cám ơn, trung úy. Ngài thực sự rất ga lăng, và các quý ngài cũng vậy.” Cử chỉ của bà bao quát cả đội kỵ binh và lính phòng vệ bờ biển đang nhe răng cười. “Nhưng tôi không thể kéo các ngài ra khỏi nhiệm vụ nữa. Justin, hãy để các quý ông đây thỏa mãn với lòng mến khách của chúng ta.”
“Thưa đúng thế,” trung úy trả lời thay. “Ngài hầu tước đã rất chu đáo, nhưng chúng tôi không thể nán lại lâu hơn nữa. Cho phép chúng tôi tiếp tục chứ?”
“Tất nhiên rồi! Ngài chắc chắn là các khu vườn đáng quan tâm chứ? Ngài sẽ không lục soát ngôi nhà chứ? Vì tôi biết có thể một trong các vị khách của tôi liên kết với bọn buôn lậu. Họ có thể trao đổi tín hiệu từ cửa số phòng ngủ.”
“Tôi nghĩ chuyện đó khó có thể, thưa phu nhân,” viên trung úy nói.
Bà hầu tước thở dài.
“Có lẽ ngài nói đúng. Hầu hết bọn họ, tôi lấy làm tiếc phải nói rằng, đầu óc quá bã đậu để có đủ trí thông minh mà lên kế hoạch, huống hồ là thực hiện được mưu đồ như vậy. Một ngày kia khi có thời giờ, tôi phải làm kẻ buôn lậu một phen, và rồi, ngài trung úy, tôi sẽ cho ngài một cuộc đuổi bắt xứng tầm với khả năng của ngài.”
“Chúng ta hãy hi vọng ngày đó không quá xa, thưa phu nhân,” viên trung úy nịnh đầm; “để bắt được một tên buôn lậu như bà quả là một thành công đỉnh cao cho một sự nghiệp buồn tẻ thế này.”
“Nói hay lắm,” bà hầu tước cổ vũ; và rồi, chìa tay ra cho Serena, người đang đứng lặng lẽ và kín đáo bên cạnh trong khi cuộc nói chuyện diễn ra, bà nói: “Tới đây, bé con, chúng ta phải tới phòng khách. Khiếp thật, nhưng chơi bạc trở nên buồn tẻ sau cuộc tiếp chuyện của chúng ta với ngài trung úy. Đó quả là một cuộc phiêu lưu và thực sự kích thích cho con.”
“Xin được phục vụ bà, thưa phu nhân.”
Người trung úy cúi chào và dẫn đám lính ít ỏi của anh ta đi.
Serena, ở bên bà hầu tước, nghe Vulcan bảo một người hầu dẫn trung úy tới cửa phía đông dẫn vào vườn. Đó là cánh cửa nằm cách xa các vách đá nhất. Nó dẫn thẳng xuống vườn dược thảo được rào chắn và từ đó dẫn vào một mê cung cổ xưa phức tạp, và trên đó là Rose Walk. Có lẽ phải mất ít nhất vài phút trước khi trung úy cũng như người của anh ta thấy họ rốt cuộc đang ở trên bãi cỏ viền quanh những vách đá và thậm chí ngay cả khi đó cũng không có lối đi thẳng xuống những vách đá mà phải qua cánh cửa nhỏ nàng đã sử dụng, nhưng thật khó để tìm ra nó lúc đêm khuya lại không có người hướng dẫn.
Bây giờ nàng và bà hầu tước đang được bạn bè vây quanh, lắng nghe, thu hút bởi câu chuyện rôm rả bà hầu tước kể về những gì vừa mới xảy ra.
“Cầu trời cho họ đừng lục soát ngôi nhà,” bà nói, “vì tôi chắc chắn có hàng tá thùng rượu được chuyển từ London ba ngày trước trông như được nhập lậu vậy. Nếu họ tìm ra chúng, chắc chắn nhân viên thuế vụ sẽ buộc tội chúng ta mua hàng, và thậm chí ngay cả Justin cũng bị buộc tội chứa chấp một tay chèo trên con tàu tiền vàng.”
Tiếng cười rộ lên vì câu nói đó, bà hầu tước tiếp tục:
“La, nhưng tôi rất tiếc cho bọn buôn lậu, dù chúng là ai chăng nữa. Các quý vị chưa bao giờ nhìn thấy những người đàn ông trẻ, lực lưỡng, cương quyết như những người lính kia; và lính phòng vệ bờ biển trông giống như những võ sĩ. Nếu xảy ra đụng độ, tôi sẽ rất lấy làm tiếc cho bọn buôn lậu, tôi thực lòng thực dạ tiếc,”
“Tôi sẽ chấp bất cứ tỉ lệ đánh cược nào, rằng bọn buôn lậu có thể lo liệu nổi cho chúng,” một chàng công tử banh bao lè nhè.
“Tôi chỉ ước có thể tận mắt xem trò chọi gà đó,” bà hầu tước bẻ lại. “Bây giờ Isabel Calver và anh trai cô ấy có thể kể cho chúng ta về bọn chúng, vì mới ngày hôm qua họ đã đi tới Dover và coi một tên.”
Có tiếng reo ngạc nhiên vì chuyện đó, một vài người tới tìm Isable và Gilly để hỏi xem họ đã thấy những gì.
“Thế Serena ngọt ngào của chúng ta nghĩ gì về chuyện này?” một giọng nói đáng ghét vang lên bên tai Serena, nàng nhìn lên thấy quý ngài Wrotham đang nhìn nàng chăm chú.
Khi nàng đang lưỡng lự tìm câu trả lời, bà hầu tước đáp bù.
“Cô bé hoảng sợ, bé con tội nghiệp,” bà nói, nhưng không hề có giọng cảm thông mà chỉ châm chọc.
“Thế ai sẽ khiển trách cô ấy đây,” quý ngài Wrotham đáp, “khi trong con mắt ngây thơ hiển nhiên chỉ có Paris mới cung cấp được thứ vải tuyệt đẹp ấy cho bộ váy của cô?”
Bà hầu tước nhướng mày một lát, rồi bà phá lên cười.
“Harry, anh thật là sắc sảo đáng nguyền rủa; có chuyện gì không thoát khỏi đôi mắt cú vọ của anh không?”
“Không nhiều lắm,” hắn nói, “và chẳng có gì khi người đẹp nhường này liên quan.” Hắn liếc nhìn Serena, người quay mặt nhanh khỏi hắn. “Harriet, tôi cần bà giúp,” hắn tiếp tục. “Serena ngọt ngào của chúng ta, người tôi biết từ khi còn tấm bé, đang giận tôi. Tôi đã dâng lời xin lỗi, lời xin lỗi khốn khổ nhất, nhưng cô ấy chẳng thèm nghe. Hãy dùng ảnh hưởng của mình đi, Harriet, để tôi may ra có được sự công bằng.”
Hắn nói khá nhẹ nhàng, nhưng có sự ngấm ngầm ẩn sâu trong giọng hắn, sự ngấm ngầm quá đen tối và xảo trá khiến Serena chỉ có thể quay sang bà hầu tước mà nói nhanh:
“Tôi xin người hãy lượng thứ, thưa phu nhân. Đầu tôi đau và xin phép người cho tôi được đi nghỉ.”
Bà hầu tước liếc nhìn nàng. Bà đủ khôn ngoan để nhận ra cô gái đã tới điểm giới hạn. Chẳng thể nhận được gì hơn nếu giữ cô ta lại.
“Tới giường nếu con muốn,” bà nói, ”chắc chắn những căn phòng này sẽ quá nóng khiến cho người khỏe mạnh nhất trong chúng ta đau đầu.”
“Xin vâng lời người, thưa phu nhân. Chúc ngủ ngon.”
Nàng nhún gối chào. Nàng thậm chí còn không thèm nhìn về phía qúy ngài Wrotham. Nhưng khi nàng đi ra, nàng nghe hắn nói rõ ràng và rành mạch:
“Harriet, tôi có một đề nghị với bà, một đề nghị mà tôi nghĩ bà sẽ thấy nó hết sức thú vị.”
Giọng hắn đầy nham hiểm, nhưng đó, Serena tự bảo, chẳng có gì lạ với những chuyện quý ngài Wrotham liên quan; cùng lúc đó nàng lại tự hỏi. Liệu lời đề nghị đó có liên quan tới nàng không? Ý nghĩ đó thật là lố bịch! Nàng tự an ủi mình rằng nàng đang tưởng tượng ngớ ngẩn. Những chuyện xảy ra tối nay đã làm nàng hoảng sợ tới mức nàng chỉ thấy được mặt đen tối của mọi vấn đề.
Nàng tới Sảnh lớn. Không có ai ở đó ngoại trừ hai người hầu đang đợi ở cửa ngoài. Rồi khi nàng đặt tay lên lan can cầu thang được chạm trổ, và chân bước lên bậc thứ nhất, một câu hỏi giữ nàng lại:
“Em đi nghỉ sao, Serena?”
Hầu tước đã ra khỏi phòng đánh bài và đang lại gần nàng.
“Vâng, thưa hầu tước, tôi... đang định... đi ngủ.”
Giọng nàng hơi run run dù cho nàng cố gắng giữ bình tĩnh.
“Có gì đó làm em lo lắng,” anh nói. “Tôi thấy nó trên gương mặt em khi em đi xuống gác với mẹ tôi.”
Nàng ngước nhìn anh. Lần đầu tiên có cái gì đó ân cần và gần như đồng cảm trong giọng anh. Ít ra anh cũng con người nhất so với sự tưởng tượng căng thẳng của nàng lúc này về đám người tàn ác dã man.
Trong giây lát, nàng hơi nghi ngờ chuyện xảy ra vài phút trước. Nó quá kỳ quái, xoay vần trong đầu óc nàng đầy những cảm xúc và hình dung lộn xộn, méo mó. Nàng chỉ biết ngoài nỗi kinh sợ, cơn ác mộng đang làm mọi sợi dây thần kinh trong nàng co lại, hầu tước Vulcan lúc này dường như là một người đàn ông có thể tin cậy được.
Mắt anh nhìn xuống mắt nàng. Nàng đã không trả lời câu hỏi của anh, nàng chỉ đứng đó, bé nhỏ và dễ bị tổn thương, gương mặt nàng đầy sắc màu, đôi mắt nàng tối lại chịu đưng. Hầu tước chìa tay ra và nắm lấy tay nàng đang vịn trên lan can. Nó rất lạnh và anh giữ nó một lúc trong cả hai tay như thể ủ ấm cho nó.
“Chuyện gì xảy ra thế?” anh dịu dàng hỏi.
Để trả lời, những ngón tay nàng run rẩy trong tay anh như chú chim bị sa bẫy, và trong khoảnh khắc chúng níu lấy tay anh, níu với một sự tin cậy thống thiết, nhưng cũng với cả sự siết chặt tuyệt vọng của ai đó đang chết đuối.
“Tôi... tôi không thể... nói với ngài, thưa hầu tước.”
Lời nói gần như tiếng thì thầm và anh phải nghiêng đầu để lắng nghe chúng.
“Thế thì đừng cố. Sáng ra mọi thứ sẽ tốt đẹp hơn.”
“Tốt hơn!” nàng lặp lại, cứ như từ đó đáng ngạc nhiên lắm với nàng. “Tôi sẽ không bao giờ... không bao giờ quên – không bao giờ.”
Nàng gần như phát khóc lúc này. Cơn xúc động giữ nàng chết lặng giờ đang vỡ òa. Trong giây lát, những ngón tay nàng lại vịn lấy tay anh, trong giây lát tay kia của nàng, gần như vô thức kiếm tìm sự ấm áp trong cái ôm của anh, và rồi giống như một con nai nhỏ hoảng sợ, nàng rời khỏi anh.
“Tôi phải... đi.”
Nàng chỉ biết mình đang mong đợi tới chỗ trú ẩn trong căn phòng nàng. Nàng muốn được cô đơn, muốn được quên. Chân nàng như bay lên cầu thang, dọc theo hành lang và trong căn phòng ngủ khuất nẻo nàng nằm sóng soài, mặt úp xuống gối với nỗi đớn đau về đầu óc mà nước mắt không xoa dịu nổi.
Buổi sáng hôm sau Serena thấy đầu nặng trịch, cặp mắt quầng thâm vì thiếu ngủ. Mãi đến chiều muộn trước khi Eudora để nàng dậy, rồi nàng cũng không cố gắng rời phòng ngủ mà ngồi bên cửa sổ nhìn ra phía biển. Eudora mang sữa và đồ ăn tới. Serena uống sữa nhưng từ chối thức ăn, nói rằng nàng không có cảm giác thèm ăn.
Nàng chưa nói cho Eudora hay chuyện xảy ra. Chẳng hiểu sao nàng không thể chịu nổi việc kể lại thành lời những gì đã thấy; nhưng hình ảnh của nó vẫn ở đó, trước mắt nàng – những ngọn đuốc cháy thắp sáng mái vòm đá thô kệch, hình nhân to lớn nằm sóng soài trên nền tối, dòng máu đỏ thẫm. Liệu nàng có quên nổi nó không? Đến chiều khi Torqo khẽ rên rỉ vả sục mũi vào bàn tay mềm rũ của nàng, nàng mới nhớ ra nó đang gợi chuyến đi dạo thường kỳ.
“Tôi sẽ đi ra ngoài, Eudora,” Serena nói, nhỏm người thoát khỏi sự mơ màng với một nỗ lực cực lớn.
“Như thế tốt cho cô,” Eudora nói, “vì trông cô tái nhợt như xác chết vậy. Nếu cô là đứa trẻ như trước, tôi chắc chắn là cô đang ốm vì miễn cưỡng phải làm chuyện gì đó.”
Serena thở dài.
“Thật không may tôi không còn là đứa trẻ và điều làm tôi đau đớn không phải sắp xảy ra mà là chuyện đã rồi.”
Eudora đợi chờ bí mật, nhưng khi nó không tới, bà cũng không nói gì. Bà hiểu rất rõ những phút giây để dành của Serena kể từ khi nàng còn bé tí đến giờ, khi có điều gì đó làm nàng bị tổn thương và xáo động quá nhiều, nàng không thể nói ra mà chỉ chịu đựng. Serena đang chịu đựng; trong khi tim Eudora đang rỉ máu vì nàng, không có gì bà có thể làm ngoại trừ săn sóc nàng hết mức có thể, hi vọng rằng sớm hay muộn nàng sẽ lấy lại được sự tự tin.
Đi về phía chiếc tủ ly, bà lấy một chiếc mũ bện rơm, nhưng khi bà đưa cho Serena, nàng lắc đầu.
“Đưa cho tôi chiếc áo có mũ trùm,” nàng nói “Tôi thích mặc nó, vì nó che được mặt.”
“Trông cô mệt mỏi quá, quả đúng vậy, nhưng ngay cả như thế thì vẫn cực kỳ đẹp hơn thảy những ai khác tại nơi này.”
Serena mỉm cười trước tinh thần bè phái của Eudora.
“Tôi không nghĩ về dung mạo mình vì tự mãn, mà vì tôi không có tâm trạng để ý tới. Trong chiếc áo choàng, người ta khó lòng nhận ra tôi, và họ sẽ không nghĩ tôi bất lịch sự nếu vội vã đi ngay trước mắt họ.”
Nàng cảm thấy lúc này không thể nói chuyện nhẹ nhàng ngay cả với Isabel hay Nicholas.
“Nếu mình thấy ai,” nàng nghĩ, “mình sẽ quay ngược lại.”
Isabel đã gửi tin nhắn cho Serena lúc trước xem nàng có cưỡi ngựa với họ được không, nhưng nàng nhắn lại là nàng cảm thấy cực kỳ mệt mỏi và hi vọng được nghỉ tới bữa tối. Không có vẻ gì là cả Isabel lẫn Nicholas sẽ ở trong vườn, nhưng Isabel kỳ quặc và hay thay đổi kế hoạch như chong chóng nên chẳng ai chắc được hành tung của cô từ giờ này sang giờ khác.
Chiếc áo Serena đang mặc, bằng len màu xanh nhạt, viền ruy băng là của riêng nàng. Yvette đang may một chiếc khác bằng nhung viền lông chồn, nhưng nó chưa xong, và giờ đây nàng cảm thấy ơn trời khi có thể mặc thứ gì đó do chính nàng mua và trả tiền chứ không phải là món quà từ bà hầu tước.
Thật ngớ ngẩn khi để ý đến những điều nhỏ nhặt, Serena tự răn mình, trong khi có bao nhiêu vấn đề lớn lao và hệ trọng hơn phải đối mặt; dù sao nàng cũng cảm thấy một sự thỏa mãn nhỏ bé nhất định với sự thực chiếc áo choàng là của riêng nàng và bà hầu tước không có sợi dây liên hệ nào với nó.
Khi nàng đã sẵn sàng và Torqo biết rằng nó sắp được đi dạo đang chạy nhảy ầm ĩ trong phòng, Serena ra bên cửa sổ. Nàng nhìn xuống khu vườn phía dưới và không thấy một ai. Rồi nàng mở cửa đi vào căn phòng tháp canh nhỏ. Những chiếc cửa sổ ở đây mở cả về hướng đông và nam giúp nàng có được góc nhìn rất đẹp về những khu vườn.Ở đây cũng không có ai trong tầm mắt ngoại trừ một người làm vườn đang đi về phía những luống hoa.
“Cô có muốn tôi dẫn đường,” Eudora hỏi, “và xem xem có ai trên cầu thang không?”
Bà không hiểu ý định bất ngờ muốn một mình của Serena, nhưng bà cũng sẵn sàng tôn trọng nó và giúp nàng hết mình. Có cái gì đó đã xảy ra, cái gì đó khiến cho cô chủ của bà lên giường trắng bệch và run rẩy như đứa trẻ hoảng loạn. Nhưng dù nguyên nhân của nó là gì, bà cũng không sao hiểu được, ngay cả khi dò hỏi kín đáo những người hầu.
Eudora không thân thiện với Martha, bà không tin tưởng bởi bà ta là người hầu cận hầu tước phu nhân, và người hầu của hầu tước thì chẳng biết gì ngoại trừ có một nhóm lính phòng vệ bờ biển và kỵ binh đến lúc tối để tìm kiếm một chiếc tàu buôn lậu song không thấy gì. Có lẽ quý ngài Wrotham là kẻ gây nên chuyện, Eudora nghĩ, bà u ám lẩm bẩm, vì bà cũng ghét tên đàn ông đã quyến rũ Charmaine xinh đẹp. Serena quay người rời khỏi căn phòng tháp canh.
“Tôi sẽ đi xuống chiếc cầu thang nhỏ này,” nàng nói, và khẽ reo lên. “Không biết cánh cửa này dẫn đi đâu?” nàng hỏi.
Nàng trỏ vào cánh cửa trong tháp canh. Nó thấp và hẹp, với tay cầm chạm khắc cũ kỹ và then cửa nặng trịch.
“Tôi chưa bao giờ thử cả,” Eudora trả lời.
“Tôi đoán nó bị khóa rồi,” Serena nói, nhưng cùng lúc nàng đưa tay ra kéo then cửa. Cánh cửa mở ra. “Tại sao vậy, Eudora,” nàng kêu lên, “có các bậc thang ở đây, những bậc thang đi xuống. Bà có nghĩ nó dẫn lối ra vườn không?”
Eudora đi từ phòng ngủ ra nhìn. Những bậc thang nhỏ và phù hợp với tầm vóc cong cong của chiếc tháp, xoắn lại ngoài tầm nhìn.
“Tôi sẽ không ngạc nhiên nếu người xây dựng nơi này sử dụng những bậc thang như vậy làm nơi ẩn náu.”
“Nhưng tất nhiên thế,” Serena đồng tình, “và hiển nhiên là các bậc thang này dẫn thẳng tới vườn. Nó giải quyết khó khăn cho tôi, Eudora. Không ai trông thấy và tôi có thể vào trong ra ngoài nếu muốn.”
Bấy giờ nàng mỉm cười còn Eudora cảm thấy nhẹ người khi có thứ gì đó đã khuấy động nàng khỏi sự thờ ơ.
“Điều đó quả là hợp lý,” Eudora nói. “Torqo sẽ hộ tống cô, và chắc chiếc cầu thang cũng được dành để sử dụng nếu không thì cửa đã bị khóa.”
“Mau lên, Torqo,” Serena nói, và đi xuống cầu thang.
Nàng phải đi rất chậm, vì lối đi hẹp và quanh co, nhưng cũng đủ ánh sáng để nhìn từ những khe hở đặt mũi tên xen trong những bức tường. Họ đi xuống, đi xuống tới khi hết cầu thang và nàng tới một cánh cửa khác. Trời khá tối và nàng phải cảm nhận bằng tay cho tới khi tìm thấy một chiếc then cửa tương tự như trên. Nó khá chặt và nàng phải đẩy sao cho cánh cửa thình lình bật tung ra.
Nàng thấy mình, không như dự tính đang ở trong vườn hay một hành lang, mà đang đứng ở đầu một cầu thang ngắn có những bậc thang bóng loáng dẫn thẳng vào một căn phòng. Căn phòng được xếp đầy sách và ở giữa, ngồi bên chiếc bàn lớn cũng với những chồng sách chất cao là một ông già. Trong một lúc, thật khó mà biết ai mới là người ngạc nhiên hơn – Serena hay người đang cư ngụ trong phòng.
Rồi Torqo, nôn nóng vì bị hạn chế bởi chiếc cầu thang chật hẹp, lọt qua Serena và chạy bổ vào trong phòng. Không đợi mời chào, nó chạy tới người đàn ông ngồi bên bàn, hít ngửi ông và vẫy vẫy đuôi. Người đàn ông đưa tay ra vuốt ve đầu nó, rồi đứng dậy.
“Sao cô không vui lòng vào trong, quý cô?” ông hỏi Serena.
Serena đi xuống những bậc thang bóng loáng và bước vào căn phòng.
“Tôi phải xin ngài thứ lỗi, thưa ngài,” nàng nói, nhún gối chào. “Tôi đã cho rằng những bậc thang này, dẫn thẳng từ phòng ngủ của mình sẽ đưa tôi ra vườn. Tôi đang định đưa chú chó của mình đi dạo.”
“Đây nguyên là phòng gác,” đó là câu trả lời, “và những bậc thang đó dẫn tới một trong những tháp canh. Chúng bị bỏ không nhiều năm rồi và ta tưởng rằng cánh cửa phía trên bị khóa lại.”
“Tôi thực sự xin lỗi, thưa ngài,” Serena lại nói.
“Nhưng xin mời! Ta đảm bảo với quý cô, rằng cô rất được chào đón.” Ông lơ đãng đặt tay lên chiếc đầu hói. “Ôi, trời ơi, mái tóc giả của ta đâu rồi? Bọn ta đã quá quen với việc không có khách nên ta e là trông không được chỉn chu cho lắm.”
Ông nhìn quanh phòng, và nhận ra mớ tóc giả đang treo trên một chiếc ghế. Ông nhặt nó lên, chụp nhanh lên đầu, hơi uốn cong sao cho nó làm ông có vẻ ngang tàng. Rồi ông đi qua lò sưởi và dọn một chiếc ghế bành lớn đang chứa đầy sách trên chỗ ngồi.
“Cô ngồi xuống chứ, quý cô?” ông hỏi, với một vẻ phong nhã lịch sự cho Serena thấy rõ ràng ông không phải là một thủ thư bình thường như nàng ngờ lúc đầu. Vai ông còng xuống, nhưng hiển nhiên khi còn trẻ ông là một người đàn ông to lớn.
Khi ông bắt đầu nhìn lên bàn, Serena thấy gương mặt ông dường như quen thuộc, nhưng đó chỉ là một ấn tượng thoáng qua, và giờ thì nàng thấy gương mặt đó hằn những nếp tuổi già và xanh xao như thể ốm yếu.
“Ngài có bao nhiêu là sách ở đây!” nàng nhận xét, nhìn vào khối sách choán đầy từ giá sách xuống sàn, lên ghế, lên bàn và thực tế là mọi nơi trong căn phòng.
“Thư viện của ta,” lão tôn ông tự hào nói. “Ta đang viết về lịch sử và ta cần rất nhiều sách để tham khảo.” Ông nhìn về phía một gói hàng còn nguyên đai nguyên kiện giữa phòng. “Xe ngựa trạm chuyển chúng đến tối qua. Ta chưa tìm được thời giờ để mở, nhưng hi vọng là chúng chứng tỏ tầm quan trọng. Cô có thích sách không, quý cô? ”
“Thực sự là có, thưa ngài, vì ở nhà tôi cũng có một thư viện rất lớn. Cha tôi không thích đọc song ông tôi là một học giả. Có lẽ ngài đã nghe nói đến ông – Ngài Hubert Starverly?”
“Hubert Starverley! Sao chứ, chúa phù hộ ta, ông ấy học cùng trường với ta. Một gã tóc vàng, ta nhớ ra rồi, kẻ khiến chúng ta mất hết kiên nhẫn vì gã luôn ẵm trọn mọi giải thưởng.”
Serena cảm thấy thích thú tò mò rằng ở đây lại có ai đó quen biết gia đình nàng.
“Ngài đã học ở Eton sao, thưa ngài?”
“Chính thế. Tất cả gia đình ta đều học ở Eton.”
“Và tên của ngài? Ngài có thể cho tôi biết tên ngài...”
Serena bắt đầu, nhưng ngay lúc đó cánh cửa mở ra. Một ông già nhỏ bé mặc chế phục nhà Vulcan bước vào phòng.
“Tôi nghe thấy tiếng nói, thưa quý ngài...” ông ta bắt đầu. Rồi ông thấy Serena và dừng lại giật mình thảng thốt.
“Ta có khách, Newman; và trời đất, ta đang quên mất tác phong của mình. Mang cho quý cô đây tách trà, Newman.”
“Dạ rõ, thưa quý ngài.”
Vẻ ngạc nhiên cửa người hầu lúc nhìn Serena trông thật tức cười, và khi ông ta rời khỏi phòng, lão tôn ông tủm tỉm cười.
“Newman tin rằng chắc cô phải rơi từ ống khói xuống. Chỉ có một lối vào nơi này của tòa nhà và cánh cửa đã bị cài then và ngáng lại.”
“Ngài thích cô độc thế này sao, thưa ngài?”
“Phải... phải, ta thích cô độc, và ta cũng có đủ khách rồi. Con trai ta, tất nhiên, đến thăm ta thường xuyên, và thỉnh thoảng, vợ ta. Nhưng Harriet luôn luôn bận rộn. Bà ấy luôn luôn ham mê giải trí.”
Serena nhìn ông chằm chằm. Rồi miệng nàng hé ra và khẽ kêu lên. Lão tôn ông nhìn nàng.
“Trời ơi, trời ơi, lẽ ra ta không nên nói. Cô có thể quên đi không?” Mắt ông bỗng lấp lánh. “Không, lẽ ra ta không nên. Đó là lý do tại sao ta không có khách, cô thấy đấy, cô bé thân mến, ta không thể giữ nổi bí mật, chẳng bao giờ giữ nổi.”
Ông đẩy mớ tóc giả ra xa trên trán khiến trông ông khá khôi hài; rồi lại kéo nó về phía trước và giờ thì Serena có thể dễ dàng thấy ấn tượng đầu tiên của nàng về khuôn mặt ông là nét quen thuộc. Justin giống cha mình. Họ có cùng những đường nét dứt khoát, cùng đôi mắt xám ánh thép dưới cặp lông mày rậm, cùng chiếc hàm, cùng chiếc mũi thanh thanh quý tộc. Nhưng nếu đây là cha của Justin... Serena bỗng nhiên vỗ tay lại. Nếu đây là cha của Justin, thì Justin không phải là quý ngài Vulcan, không được xưng hô bằng tước “hầu”.
Lão tôn ông lại hơi tủm tỉm cười.
“Ta đáng bị ruồng bỏ lần nữa. Ta cứ luôn như vậy, cách này hay cách khác; nhưng ta nghĩ ta có thể tin cậy cháu gái của Hubert Staverley! Cô có hứa với ta sẽ không làm lộ những gì ta sắp kể cho cô không?”
“Tôi hứa với ngài,” Serena kêu lên; “và tôi nghĩ tôi đã đoán ra bí mật của ngài. Ngài là hầu tước Vulcan – cha của Justin.”
“Đúng rồi, cô bé thân yêu. Đúng rồi. Nhưng ta không bao giờ được tiết lộ bí mật. Đó là một câu chuyện dài, và theo quan điểm khiêm tốn của ta không phải là chuyện hấp dẫn gì. Nhưng cô sẽ tự đánh giá cho mình. À, trà của chúng ta đến rồi.”
Người hầu bước vào với khay trà lớn bằng bạc. Ông ta đặt nó xuống chiếc bàn nhỏ bên lò sưởi nơi hầu tước của ông đã vội vã thu dọn đống sách vở.
“Tôi đã pha trà, thưa Hầu tước,” ông ta nói thấp giọng.
“Tốt! Tốt!”
Lão tôn ông quay sang Serena.
“Thứ lỗi cho ta, quý cô, nếu ta không tự pha trà được cho cô, nhưng ta hay đãng trí. Đôi khi ta cho liền mấy thìa – quá nhiều và rất phung phí – lúc khác ta lại quên cho vào trà. Newman làm cho ta. Ông ấy rất cẩn thận. Chúng ta phải rất khó khăn để lo chuyện trà nước.”
Ông rót cho Serena một ly trà, và bỗng dưng Serena thấy dấy lên trong lòng mối thương cảm. Liệu ông có hay những sự tiêu dùng lãng phí mà không hề bị chú ý ở phần kia của tòa nhà không? Hay liệu ông đã bao giờ đoán ra loại trà ông uống có thể được nhập khẩu mà không hề đóng thuế?
Người hầu rút lui; nhấp một ngụm trà, hầu tước nói:
“Vì con đã phát hiện ra ta, công bằng là con nên biết lý do tại sao ta ở đây, mặt khác con có thể tưởng tượng ra mọi thứ, có không?”
“Con sẽ vui mừng nếu được ngài tin cậy kể cho con, thưa Hầu tước; nhưng nếu ngài không muốn kể những gì quá riêng tư... con cũng hiểu.”
“Và tò mò suốt phần đời còn lại sao?” lão tôn ông hỏi, rồi ông phá lên cười. “Không, không, cô bé thân yêu, ta cũng đã từng có thời tuổi trẻ, sự thật là ta chẳng bao giờ ngừng tò mò khi tìm hiểu hay khám phá về người khác. Giờ đây ta có thích thú khám phá sách vở hơn, nhưng ở tuổi con ta thích đi dạo bằng hai chân mình. Ờ, để bắt đầu. Con đã gặp vợ ta chưa?”
“Dạ, thưa hầu tước.”
“Vậy con trai ta?”
“... Dạ.”
Khó mà không lưỡng lự trước khi trả lời, nhưng ông lão có vẻ khá hài lòng trước từ một âm tiết đó.
“Nó là một chàng trai tuyệt vời và ta rất tự hào vì nó. Nó chưa bao giờ quên ta, chưa bao giờ. Đôi khi chúng ta đọc cùng nhau, nhưng đôi khi chúng ta chỉ nói chuyện. Nó kể với ta về thế giới bên ngoài. Ta chưa bao giờ hối tiếc vì rời bỏ nó, nhưng Justin vẫn muốn chắc chắn là ta không hối tiếc. Một cậu bé ngoan, một cậu bé rất ngoan.”
Trong giây lát, ông lão dường như quên mất mình đang định kể cho Serena về câu chuyện của mình; rồi cuối cùng ông tiếp tục:
“Nhưng con muốn biết tại sao ta ở đây. Ờ, tất cả bắt đầu ở chỗ ta là một con bạc.”
“Một con bạc!” Serena kêu lên.
“Phải, phải, ta biết con đang nghĩ gì. Vậy ta giống vợ ta. Nhưng cũng không hẳn thế. Ta không để tâm vào chuyện đó, ta chơi một ít khi ở London, và không quá nhiều, nếu con hiểu ta. Đôi khi ở Cocoa Tree hay ở Watier’s ta sẽ chơi đôi chút trước khi đưa Harriet tới Almack’s. Một ván chơi trong nhà bè bạn để thì giờ trôi qua khi bà ấy chán khiêu vũ, đó là tất cả những ý nghĩa của cờ bạc với ta. Ta không thích thú gì những thứ rác rưởi chết tiệt đó, ta yêu sách, và ta đã bắt đầu viết lịch sử của Mandrake.”
“Đó là những gì ngài đang viết sao?” Serena ngắt lời.
“Và đã viết trong hai mươi năm qua. Nó sẽ là một câu chuyện hay khi kết thúc... nếu ta có thể kết thúc được nó.”
Ông nhìn quanh căn phòng hơi thở dài, rồi lại tiếp tục:
“Nói thẳng với con là ta luôn luôn quan tâm đến sách hơn hết thảy mọi thứ khác trên đời. Đó là Harriet bảo, và bà ấy thề là lẽ ra ta phải cưới lấy một quyển sách! Dĩ nhiên đó là lời giễu cợt, nhưng cũng có phần sự thật trong đó. Ta cứ như con chó theo đuôi bà ấy. Ta thực sự quá già khi kết hôn với đứa trẻ xinh đẹp ấy khi ta trông thấy bà lần đầu; nhưng bà ấy giống như tất cả các câu chuyện thần tiên ta đã đọc khi còn là một cậu bé con ghép lại thành một. Không có từ ngữ nào thực sự có thể miêu tả nổi bà... khuôn mặt không ai sánh kịp... và ta nghĩ... ta tin rằng ta đã làm cho bà hạnh phúc.”
Ông lão thở dài và nhìn chăm chăm vào ngọn lửa.
“Nhưng ta đã già, quá già, ta nghĩ thế. Ta nhanh chóng cảm thấy mệt mỏi vì những chuyện xã hội, cuộc sống phóng đãng. Nó không cho ta thời gian nào để đọc, và hiển nhiên là không còn thời giờ để viết nữa. Ta trở về Mandrake và để lại Harriet một mình. Sau đó, bà ấy đột ngột quay về. Chúng ta bất hoà lần đầu tiên trong đời, vì bà ấy muốn thay đổi ngôi nhà, bà ấy muốn nó đầy ắp khách khứa. Ta cho là ta đã quen ở một mình rồi, vì ta không thích có khách trong nhà. Bên cạnh đó ta muốn sống với cuốn sách của ta”
Có tiếng thở dài nhẹ nữa, Serena hiểu lão tôn ông đang nhớ lại những bất đồng và tranh cãi. Rồi ông tiếp tục:
“Khi mọi thứ đang trong tình trạng khó khăn nhất, một người bạn của ta ngã bệnh. Ông ấy là một nhân vật rất nổi bật lưu vong từ Pháp, hoàng tử Charles de Fauberg St Vincent. Ông ấy đang trong thời kỳ sung sức nhất nhưng tim ông ấy lại có vấn đề lớn – giống như ta cũng phải chịu đựng suốt đời mình; chính xác là từ khi ta học ở Eton với ông của con! Trở thành một người ngoại quốc và đau bệnh, vị hoàng tử nghĩ rằng mình sắp chết. Không có thế lực, không bạn bè từ nước ngoài, ngay cả người thân nhất. Ông ấy là bạn của Harriet và vợ ta xin ta nói chuyện, động viên ông. Không có chút can trường nào, ông nằm đó chờ thần chết mang mình đi. Ta tới bên giường ông.”
“ ‘Charles, bạn thân mến,’ ta nói, ‘chẳng có gì nghiêm trọng với ông đâu. Dậy đi, quay lại với cuộc đời đi. Còn rất nhiều năm đầy lạc thú trên đời dành cho ông.’ ‘Nó quá muộn rồi,’ vị hoàng tử trả lời, ‘quá muộn rồi, bạn già của tôi, vì tôi đang hấp hối.’ ‘Hấp hối!’ Tôi kêu lên. ‘Ông quả là cáo già, vì ông chẳng hấp hối hơn tôi đâu. Cả hai trái tim của chúng ta đều làm ta khổ suốt, nhưng điều đó cũng không nói lên rằng chúng ta, bất cứ ai trong chúng ta phải xuống mồ trong một phần tư thế kỷ nữa.’”
“Ông ấy không trả lời ta; vì thế, cương quyết phải khuấy động ông, ta nói: ‘Tôi sẽ cược với ông, Charles, là tôi chết trước ông. Nghe có giống một lời đề nghị trong thể thao không?’ Ông ấy mỉm cười yếu ớt với ta. ‘Ông sẽ mất sạch tiền đó, Vulcan.’ Ta lắc đầu. ‘Tôi sẽ lấy của ông,’ ta nói. ‘Thế ông định cược gì?’ ‘Bất cứ thứ gì ông thích,’ ông ta trả lời, ‘vì chắc chắn tôi sẽ thắng.’ ‘Tôi đặt ông mười ngàn đồng vàng,’ ta đáp lại. ‘Không, hai mươi ngàn đồng vàng, hai mươi ngàn đồng vàng rằng tôi sẽ chết trước ông, Charles.’ Lần đầu tiên trong nhiều tuần lễ, ông ta phá lên cười. ‘Tôi sẽ sống chỉ để chọc tức ông,’ ông ấy kêu lên.”
Lão tôn ông thở một hơi dài.
“Con có đoán ra được phần kết của câu chuyện không?”
“Con nghĩ thế,” Serena trả lời.
“Vợ ta muốn tiền. Bà ấy muốn nó cho Mandrake; ta muốn cô độc. Ta đoán giờ nó là một việc sai trái, nhưng hoàng tử là một người giàu có. Hai mươi ngàn đồng vàng chỉ là con số nhỏ với ông ấy nhưng là gia tài lớn với Mandrake. Thế là ta chết; ta chết bởi bệnh đậu mùa! Chỉ có vợ ta và người hầu thân cận nhất chăm sóc những ngày bệnh cuối cùng. Quan tài được đóng nắp trước khi bất cứ ai có thể trông thấy và lây bệnh. Ta nằm nghỉ trong sự tráng lệ của hầm mộ gia tộc. Nhưng ta ở đây – một cái xác sống nguyên. ”
Lão tôn ông tủm tỉm cười và Serena cũng phải bật cười.
“Quả là một câu chuyện kinh ngạc,” nàng kêu lên, “đủ kích thích cho một quyển sách.”
“Ta thường ngẫm nghĩ về chuyện đó,” hầu tước già nói; “có lẽ một ngày kia ta sẽ viết câu chuyện, nhưng nó sẽ không bao giờ được xuất bản.”
“Còn con trai của ngài? Anh ấy có bận tâm không?” Serena không thể nhịn nổi câu hỏi này.
“À, Justin! Nó không biết trong hơn một năm. Lúc đầu nó rất giận dữ, thực sự ta chưa bao giờ trông nó nổi giận đến thế. Nó thề sẽ lật tung mọi chuyên. Nó khiến cho cả hai ta đều rất khó khăn, nhưng chúng ta đã thuyết phục nó – ít ra là Harriet đã làm được. Một lý do là, tiền đã tiêu hết và không ai muốn trả lại, lý do nữa là ta toại nguyên. Ta thích cuộc sống này hơn. Ta có mọi thứ ta cần – tiện nghi, người hầu của riêng ta, góc nhìn từ cửa sổ và những kiến thức mà ta ở đây, tại Mandrake này.”
Hầu tước già phác tay làm một cử chỉ và thêm:
“Thêm nữa, ta có thời gian để viết lách. Giá như con biết ta ghét những người đần độn phải gặp đêm này qua đêm khác đến mức nào! Nếu họ có thể đọc, họ sẽ không bao giờ làm trừ phi chắc chắn rằng họ được mời đến mọi dạ tiệc sang trọng. Ồ, và những bữa dạ tiệc dài vô tận kia nữa! Ơn chúa giờ đây ta được tha khỏi nỗi buồn chán của những người đẹp! ”
Ông nói như một cậu bé vô công rồi nghề ham chơi, và Serena phải bật cười.
“Con rất biết ơn ngài, thưa hầu tước,” nàng nói, “vì đã tin tưởng tiết lộ bí mật của ngài cho con. Con đảm bảo là nó sẽ được giữ kín. Chắc bây giờ con phải đi nếu không sẽ xâm phạm đến sự cô độc của ngài.”
“À, nhưng thi thoảng ta thích có khách,” hầu tước già nói, “đặc biệt là khi họ trẻ trung và xinh đẹp như con.”
Serena mỉm cười với ông.
“Cám ơn hầu tước vì lời khen ngợi. Con có thể tới đây nữa không?”
“Ta sẽ rất đau lòng nếu con không tới. Nhưng việc con tới thăm sẽ là một bí mật, nhớ nhé, và con không bao giờ được tiết lộ với ai chuyện chúng ta gặp nhau.”
“Con hứa danh dự với ngài, thưa hầu tước, rằng sẽ không ai hay con tìm được đường xuống đây. Và nếu ngài thôi không muốn con đến, sẽ rất đơn giản – ngài chỉ việc khóa cửa.”
“Ta không bao giờ nghĩ về điều đó,” vị hầu tước già nói; “nhưng nếu cửa cứ để mở, luôn luôn mở; con có hứa là sẽ trở lại không?”
“Con hứa với ngài điều đó.”
“Và giờ thì con muốn ra vườn. Ta có lối đi riêng, tất nhiên rồi, và ta ra ngoài lúc đêm để hưởng khí trời. Newman và ta đi dạo cùng nhau. Có cái gì đó thật tuyệt diệu ở Mandrake lúc đêm trăng. Đêm nào đó con phải tới chỗ ta và để ta cho con xem nó đẹp đến nhường nào.”
“Con rất muốn điều đó,” Serena giản dị nói.
Ông lão rung chuông và ngay lập tức cửa mở.
“Dẫn quý cô đây ra vườn, Newman.”
Serena nhún gối chào.
“Tạm biệt ngài, hầu tước, và cám ơn ngài lần nữa.”
“Xin phục vụ con, cô bé yêu quý.”
Ông nâng tay nàng lên môi. Trong giây lát, khi ông nghiêng đầu, bờ vai rộng của ông che bóng ánh sáng từ cửa sổ, và nàng tưởng như Justin đang hôn tay mình.
Rồi bà hầu tước quay lại, gương mặt bà thể hiện sự tàn nhẫn, độc ác không hề che đậy làm Serena muốn không chỉ òa khóc mà còn bỏ chạy, thoát khỏi nỗi sợ con người quá sa đọa đến mức có thể hân hoan vì giết người. Mắt bà hầu tước sáng lấp lánh, má bà ửng màu sắc của sự phấn khích, rồi bà hất đầu lại ngang ngược như thể muốn đối mặt với toàn thể thế giới và hoàn toàn không hề sợ hãi.
“Lại đây, bé con,” bà bảo, và giọng bà ngân lên du dương, “Phải quay lại với các vị khách của chúng ta thôi.”
Serena chỉ có thể chăm chăm nhìn bà, và nửa như nôn nóng, nửa đùa cợt, bà hầu tước vươn tay ra, nắm lấy khuỷu tay nàng, rời khỏi hang nơi những ngọn đuốc hung tợn vẫn xèo xèo chiếu sáng đối lập với khoảng tối của hành lang. Những ngón tay bà khỏe và quyết đoán như thép. Chúng cũng ấm nữa, và Serena cảm thấy được cả năng lượng và sự kích thích đang rung động qua chúng.
Có vẻ như hành động nhanh lẹ, giết người, quyết đạt được mục đích đã làm tuổi trẻ bốc đồng và táo bạo hồi sinh trong nữ hầu tước. Bà căng đầy sức sống, nóng ran sức quyến rũ làm cho trong giây lát bà trông đê mê vì niềm đam mê được đền đáp. Bà trông hệt như trong những ngày hoàng kim của sắc đẹp khi bà nằm thỏa mãn và mê mẩn trong tay của một người tình đầy thèm muốn.
Tay bà nửa kéo, nửa lê người Serena, nữ hầu tước đi nhanh xuống hành lang ngầm. Chân Serena vô thức bước theo bà. Trong lúc đó nàng ngừng suy luận, ngừng suy nghĩ, chỉ thấy được nỗi kinh hoàng không thể tả nổi và sự giá lạnh đang xâm nhập tới tận xương.
Trong lúc họ đi, bà hầu tước dừng lại tại từng ngọn nến đang bập bùng và tắt chúng. Họ trèo qua những bậc đá dốc bên nhau trong im lặng. Bà hầu tước vẫn giữ tay Serena và tiếp tục như vậy tới đoạn cuối của hành lang nơi dẫn họ tới tấm ván ốp trượt và trở lại toà nhà.
Họ bước vào trong ánh sáng và hơi ấm, tấm ván ốp bí mật đóng lại sau lưng, Serena cảm thấy như mình vừa thức dậy sau cơn ác mộng tồi tệ. Quầng sáng vàng nhạt của những ngọn nến, thành cầu thang chạm khắc bóng nhoáng và những bức tường ốp ván gỗ, tấm thảm dày màu đỏ và xanh dương là những dấu mốc quen thuộc đằng sau sự kỳ quặc ẩn giấu của ngọn lửa dữ tợn, bóng tối màu tía, của những tảng đá ẩm ướt, xù xì. Ở đây thật khó tin có những mánh khóe xấu xa, đam mê bạo lực và sự khát máu giết người.
Rúng động, Serena đưa tay lên trán. Bà hầu tước nhìn nàng với cặp mắt khe khắt và đôi môi khinh khỉnh trước sự yếu đuối nhường đó.
“Bình tĩnh lại đi, cô gái,” bà cao giọng nói. “Chẳng còn thời giờ nữa. Đó là một tên xỏ lá kém cỏi trên đời, chẳng ai nhớ hắn.”
“Nhưng, phu nhân... phu nhân...” Serena lắp bắp, và giọng nàng vỡ ra, lạ lùng ngay với chính tai nàng.
Bà hầu tước ngả đầu ra sau, ánh nến chiếu lấp lánh những trang sức quanh cổ và lóng lánh bên tai bà.
“Ghê quá, ngươi thật là gan thỏ đế. Ta đã nghĩ có dòng máu tốt hơn chảy trong huyết quản ngươi, nhưng xem ra ta đã lầm.”
Bất giác Serena phản ứng với những vẻ châm chích trong lời nói và giọng điệu của bà. Không đáp lại, nàng vươn thẳng vai và giữ cằm vênh cao hơn chút.
“Lại đây, thế tốt hơn,” bà hầu tước động viên. “Véo má ngươi đi, bé con, sao cho chúng có sắc một chút, hay là ta đi loan báo rằng ngươi vừa gặp ma.”
Bà phá lên cười với câu nói đùa của mình còn Serena rùng mình trước âm thanh đó. Nàng đã nghe rất nhiều về ma từ khi tới Mandrake, và giờ có lẽ lại thêm một linh hồn nữa đi lại giữa những hành lang tối tăm tìm kiếm thân xác bị thương và lạc mất của gã.
Một tên lừa đảo và buôn lậu, nhưng gã là con người, một con người đã sống, đã hít thở và tồn tại trên cõi đời này. Giờ đây máu của gã, chỉ ít phút trước còn ấm, đã thấm vào bùn ướt và biển sẽ nhanh chóng vùi thân xác gã vào lòng biển lạnh lùng. Serena tự nhiên cảm thấy một sự thôi thúc quay trở lại, đứng bên kẻ hấp hối đó. Nếu như nàng không thể làm được điều gì, ít nhất nàng cũng có thể cầu nguyện cho gã.
Nhưng quá muộn rồi, bà hầu tước đã bước lên cầu thang, Serena hiểu nàng phải theo bà ta. Trong một vài giây ngắn ngủi, chỉ có tiếng sột soạt của váy áo và tiếng bước chân họ nhẹ nhàng trên bậc thang. Rồi họ tới tầng thứ nhất, Serena rút tay ra cầu xin.
“Xin người, phu nhân,” nàng nói, “cho tôi đi nghỉ?”
Bà hầu tước cau mày nhìn nàng.
“Tất nhiên là không, đứa bé ngu ngốc; ngươi quá nhát gan đến mức không hiểu rằng chúng ta phải trở lại phòng khách cùng nhau sao? Sự vắng mặt của chúng ta sẽ gây sự chú ý, nhưng chúng ta vừa ở phòng ngủ của ta để sửa sang khuôn mặt. Lại đây và ngừng việc lo lắng đó đi. Mất đi một tên buôn lậu côn đồ không hề gì, ta dám chắc với ngươi.”
Vừa nói, bà hầu tước vừa khoác lấy tay Serena và nàng biết nó giam cầm mình chắc chắn như xiềng xích. Họ băng qua tầng thứ nhất và đến đầu trên của Cầu thang lớn. Khi họ bắt đầu xuống, bà hầu tước nói bằng một giọng cao và lớn tiếng:
“Ta thề là vận may của ta sẽ thay đổi. Ta sẽ thắng. Ta có thể cảm thấy vận may ở ngay đầu ngón tay ta.”
Bà đang nói để lấy hiệu ứng. Serena bất chợt hiểu ra điều đó, và rồi nàng thấy phía dưới họ, đi từ hướng sàn dạ tiệc là một nhóm vài người đàn ông – lính phòng vệ bờ biển, kỵ binh và hầu tước Vulcan đứng với họ. Bà hầu tước làm ra vẻ không thấy thứ gì, nhưng Serena cảm nhận được sức ép bất ngờ từ các ngón tay bà và sự cảnh giác căng thẳng của toàn cơ thể bà cho thấy đó chỉ là sự giả vờ. Giọng bà hầu tước phớt nhẹ khi bà tiếp tục:
“Trời, nhưng cờ bạc là một nghề may rủi. Con có thể thực sự may mắn nếu nó chưa liên quan tới con, Serena yêu quý. Nhưng ta cũng nghe nhiều người nói rằng hôn nhân cũng như trò may rủi vậy.”
Họ tới những bậc cuối cùng của Cầu thang lớn, và với tiếng kêu khe khẽ đầy ngạc nhiên, bà hầu tước nhìn đám đàn ông đang tiến lên phía sảnh.
“Ôi ôi, có thêm khách!” bà kêu lên. Rồi nhìn con trai bà thêm, “Bạn con à, Justin?”
“Vâng, những người bạn, thưa mẹ,” hầu tước nghiêm trang trả lời; “”nhưng không may là họ tới thăm chúng ta vì công việc chứ không vì vui vẻ. Con xin giới thiệu sĩ quan đương trách, trung úy Delham?”
Một thanh niên trẻ mặt đỏ phừng phừng trong bộ đồng phục kỵ binh hơi ngại ngùng cúi chào.
“Tôi rất vui mừng được biết ngài, trung úy,” bà hầu tước nói. “Ngài sẽ tham dự một trò chơi may rủi với chúng tôi chăng?”
“Thật không may, thưa phu nhân, tôi đến đây vì nhiệm vụ,” viên trung úy đáp lời. “Lính phòng vệ bờ biển báo cáo họ đã thấy một con tàu ở ngay chân vách tòa nhà bà. Tôi tới đây xin phép được lục soát khu vườn của bà và cũng để tìm hiểu xem liệu bà có biết gì về một nơi neo đậu nơi tàu thuyền có thể thả neo và dỡ hàng không.”
Mắt bà hầu tước trợn tròn kinh ngạc.
“Một con tàu! Ở đây!” bà kêu lên, hết nhìn người này lại sang người khác. “Nhưng các ngài nghi ngờ điều gì?”
“Buôn lậu, thưa phu nhân.”
Bà hầu tước hét lên.
“Những tên buôn lậu! La, nhưng tôi cho rằng đó là ý nghĩ đáng hồi hộp. Những tên buôn lậu ở Mandrakes! Con nghĩ gì về chuyện này hả Justin?”
“Con ngờ rằng đây chỉ là câu chuyện hão huyền,” anh lặng lẽ nói; “như trung úy Delham vừa nói, các vách đá rất nguy hiểm và tàu thuyền khó lòng mà đậu được.”
“Ôi, nhưng chúng ta hãy cầu nguyện là chúng có thể làm được điều đó!” bà hầu tước kêu lên, vỗ tay vào nhau. “Tôi hứa với ngài, trung úy, là tôi sẽ không bao giờ thỏa mãn cho đến khi tôi nhìn được tàu hàng của chúng. Nó có gì nhỉ, hãy nghĩ xem? Đăng ten? Ruy băng? Vải nhung cho bộ váy mới? Và có thể một hay hai chai rượu Pháp? Thật là xấu hổ cho ngài, trung úy, và các quý ông đi cùng, khi tìm cách làm hỏng trò chơi có bao nhiêu lợi ích cho cộng đồng!”
Có tiếng cười hô hố cất lên sau đó; nhưng bà hầu tước làm sững sờ những người nghe bằng nụ cười tươi rói, tiếp tục: “Các ngài có thể cười, nhưng đừng làm gì ghê gớm, những người đàn ông đạo đức khắt khe, chỉ chăm chăm thi hành luật phát, có nhớ tới nhu cầu của những người phụ nữ yếu đuối chúng tôi chăng? Mọi thứ chúng tôi cần đều trở nên đắt đỏ hơn sau chiến tranh, không kể là thường xuyên hiếm hoi. Hãy nghĩ tới chúng tôi cố gắng duy trì làm những người xinh đẹp quyến rũ mà không có một chút hỗ trợ ”
“Nếu chúng tôi bắt được những tên buôn lậu, thưa phu nhân, tôi sẽ cho bà hay tàu chúng có gì,” trung úy Delham đáp.
“Đó là lời hứa đấy nhé!” bà hầu tước kêu lên. “Cám ơn, trung úy. Ngài thực sự rất ga lăng, và các quý ngài cũng vậy.” Cử chỉ của bà bao quát cả đội kỵ binh và lính phòng vệ bờ biển đang nhe răng cười. “Nhưng tôi không thể kéo các ngài ra khỏi nhiệm vụ nữa. Justin, hãy để các quý ông đây thỏa mãn với lòng mến khách của chúng ta.”
“Thưa đúng thế,” trung úy trả lời thay. “Ngài hầu tước đã rất chu đáo, nhưng chúng tôi không thể nán lại lâu hơn nữa. Cho phép chúng tôi tiếp tục chứ?”
“Tất nhiên rồi! Ngài chắc chắn là các khu vườn đáng quan tâm chứ? Ngài sẽ không lục soát ngôi nhà chứ? Vì tôi biết có thể một trong các vị khách của tôi liên kết với bọn buôn lậu. Họ có thể trao đổi tín hiệu từ cửa số phòng ngủ.”
“Tôi nghĩ chuyện đó khó có thể, thưa phu nhân,” viên trung úy nói.
Bà hầu tước thở dài.
“Có lẽ ngài nói đúng. Hầu hết bọn họ, tôi lấy làm tiếc phải nói rằng, đầu óc quá bã đậu để có đủ trí thông minh mà lên kế hoạch, huống hồ là thực hiện được mưu đồ như vậy. Một ngày kia khi có thời giờ, tôi phải làm kẻ buôn lậu một phen, và rồi, ngài trung úy, tôi sẽ cho ngài một cuộc đuổi bắt xứng tầm với khả năng của ngài.”
“Chúng ta hãy hi vọng ngày đó không quá xa, thưa phu nhân,” viên trung úy nịnh đầm; “để bắt được một tên buôn lậu như bà quả là một thành công đỉnh cao cho một sự nghiệp buồn tẻ thế này.”
“Nói hay lắm,” bà hầu tước cổ vũ; và rồi, chìa tay ra cho Serena, người đang đứng lặng lẽ và kín đáo bên cạnh trong khi cuộc nói chuyện diễn ra, bà nói: “Tới đây, bé con, chúng ta phải tới phòng khách. Khiếp thật, nhưng chơi bạc trở nên buồn tẻ sau cuộc tiếp chuyện của chúng ta với ngài trung úy. Đó quả là một cuộc phiêu lưu và thực sự kích thích cho con.”
“Xin được phục vụ bà, thưa phu nhân.”
Người trung úy cúi chào và dẫn đám lính ít ỏi của anh ta đi.
Serena, ở bên bà hầu tước, nghe Vulcan bảo một người hầu dẫn trung úy tới cửa phía đông dẫn vào vườn. Đó là cánh cửa nằm cách xa các vách đá nhất. Nó dẫn thẳng xuống vườn dược thảo được rào chắn và từ đó dẫn vào một mê cung cổ xưa phức tạp, và trên đó là Rose Walk. Có lẽ phải mất ít nhất vài phút trước khi trung úy cũng như người của anh ta thấy họ rốt cuộc đang ở trên bãi cỏ viền quanh những vách đá và thậm chí ngay cả khi đó cũng không có lối đi thẳng xuống những vách đá mà phải qua cánh cửa nhỏ nàng đã sử dụng, nhưng thật khó để tìm ra nó lúc đêm khuya lại không có người hướng dẫn.
Bây giờ nàng và bà hầu tước đang được bạn bè vây quanh, lắng nghe, thu hút bởi câu chuyện rôm rả bà hầu tước kể về những gì vừa mới xảy ra.
“Cầu trời cho họ đừng lục soát ngôi nhà,” bà nói, “vì tôi chắc chắn có hàng tá thùng rượu được chuyển từ London ba ngày trước trông như được nhập lậu vậy. Nếu họ tìm ra chúng, chắc chắn nhân viên thuế vụ sẽ buộc tội chúng ta mua hàng, và thậm chí ngay cả Justin cũng bị buộc tội chứa chấp một tay chèo trên con tàu tiền vàng.”
Tiếng cười rộ lên vì câu nói đó, bà hầu tước tiếp tục:
“La, nhưng tôi rất tiếc cho bọn buôn lậu, dù chúng là ai chăng nữa. Các quý vị chưa bao giờ nhìn thấy những người đàn ông trẻ, lực lưỡng, cương quyết như những người lính kia; và lính phòng vệ bờ biển trông giống như những võ sĩ. Nếu xảy ra đụng độ, tôi sẽ rất lấy làm tiếc cho bọn buôn lậu, tôi thực lòng thực dạ tiếc,”
“Tôi sẽ chấp bất cứ tỉ lệ đánh cược nào, rằng bọn buôn lậu có thể lo liệu nổi cho chúng,” một chàng công tử banh bao lè nhè.
“Tôi chỉ ước có thể tận mắt xem trò chọi gà đó,” bà hầu tước bẻ lại. “Bây giờ Isabel Calver và anh trai cô ấy có thể kể cho chúng ta về bọn chúng, vì mới ngày hôm qua họ đã đi tới Dover và coi một tên.”
Có tiếng reo ngạc nhiên vì chuyện đó, một vài người tới tìm Isable và Gilly để hỏi xem họ đã thấy những gì.
“Thế Serena ngọt ngào của chúng ta nghĩ gì về chuyện này?” một giọng nói đáng ghét vang lên bên tai Serena, nàng nhìn lên thấy quý ngài Wrotham đang nhìn nàng chăm chú.
Khi nàng đang lưỡng lự tìm câu trả lời, bà hầu tước đáp bù.
“Cô bé hoảng sợ, bé con tội nghiệp,” bà nói, nhưng không hề có giọng cảm thông mà chỉ châm chọc.
“Thế ai sẽ khiển trách cô ấy đây,” quý ngài Wrotham đáp, “khi trong con mắt ngây thơ hiển nhiên chỉ có Paris mới cung cấp được thứ vải tuyệt đẹp ấy cho bộ váy của cô?”
Bà hầu tước nhướng mày một lát, rồi bà phá lên cười.
“Harry, anh thật là sắc sảo đáng nguyền rủa; có chuyện gì không thoát khỏi đôi mắt cú vọ của anh không?”
“Không nhiều lắm,” hắn nói, “và chẳng có gì khi người đẹp nhường này liên quan.” Hắn liếc nhìn Serena, người quay mặt nhanh khỏi hắn. “Harriet, tôi cần bà giúp,” hắn tiếp tục. “Serena ngọt ngào của chúng ta, người tôi biết từ khi còn tấm bé, đang giận tôi. Tôi đã dâng lời xin lỗi, lời xin lỗi khốn khổ nhất, nhưng cô ấy chẳng thèm nghe. Hãy dùng ảnh hưởng của mình đi, Harriet, để tôi may ra có được sự công bằng.”
Hắn nói khá nhẹ nhàng, nhưng có sự ngấm ngầm ẩn sâu trong giọng hắn, sự ngấm ngầm quá đen tối và xảo trá khiến Serena chỉ có thể quay sang bà hầu tước mà nói nhanh:
“Tôi xin người hãy lượng thứ, thưa phu nhân. Đầu tôi đau và xin phép người cho tôi được đi nghỉ.”
Bà hầu tước liếc nhìn nàng. Bà đủ khôn ngoan để nhận ra cô gái đã tới điểm giới hạn. Chẳng thể nhận được gì hơn nếu giữ cô ta lại.
“Tới giường nếu con muốn,” bà nói, ”chắc chắn những căn phòng này sẽ quá nóng khiến cho người khỏe mạnh nhất trong chúng ta đau đầu.”
“Xin vâng lời người, thưa phu nhân. Chúc ngủ ngon.”
Nàng nhún gối chào. Nàng thậm chí còn không thèm nhìn về phía qúy ngài Wrotham. Nhưng khi nàng đi ra, nàng nghe hắn nói rõ ràng và rành mạch:
“Harriet, tôi có một đề nghị với bà, một đề nghị mà tôi nghĩ bà sẽ thấy nó hết sức thú vị.”
Giọng hắn đầy nham hiểm, nhưng đó, Serena tự bảo, chẳng có gì lạ với những chuyện quý ngài Wrotham liên quan; cùng lúc đó nàng lại tự hỏi. Liệu lời đề nghị đó có liên quan tới nàng không? Ý nghĩ đó thật là lố bịch! Nàng tự an ủi mình rằng nàng đang tưởng tượng ngớ ngẩn. Những chuyện xảy ra tối nay đã làm nàng hoảng sợ tới mức nàng chỉ thấy được mặt đen tối của mọi vấn đề.
Nàng tới Sảnh lớn. Không có ai ở đó ngoại trừ hai người hầu đang đợi ở cửa ngoài. Rồi khi nàng đặt tay lên lan can cầu thang được chạm trổ, và chân bước lên bậc thứ nhất, một câu hỏi giữ nàng lại:
“Em đi nghỉ sao, Serena?”
Hầu tước đã ra khỏi phòng đánh bài và đang lại gần nàng.
“Vâng, thưa hầu tước, tôi... đang định... đi ngủ.”
Giọng nàng hơi run run dù cho nàng cố gắng giữ bình tĩnh.
“Có gì đó làm em lo lắng,” anh nói. “Tôi thấy nó trên gương mặt em khi em đi xuống gác với mẹ tôi.”
Nàng ngước nhìn anh. Lần đầu tiên có cái gì đó ân cần và gần như đồng cảm trong giọng anh. Ít ra anh cũng con người nhất so với sự tưởng tượng căng thẳng của nàng lúc này về đám người tàn ác dã man.
Trong giây lát, nàng hơi nghi ngờ chuyện xảy ra vài phút trước. Nó quá kỳ quái, xoay vần trong đầu óc nàng đầy những cảm xúc và hình dung lộn xộn, méo mó. Nàng chỉ biết ngoài nỗi kinh sợ, cơn ác mộng đang làm mọi sợi dây thần kinh trong nàng co lại, hầu tước Vulcan lúc này dường như là một người đàn ông có thể tin cậy được.
Mắt anh nhìn xuống mắt nàng. Nàng đã không trả lời câu hỏi của anh, nàng chỉ đứng đó, bé nhỏ và dễ bị tổn thương, gương mặt nàng đầy sắc màu, đôi mắt nàng tối lại chịu đưng. Hầu tước chìa tay ra và nắm lấy tay nàng đang vịn trên lan can. Nó rất lạnh và anh giữ nó một lúc trong cả hai tay như thể ủ ấm cho nó.
“Chuyện gì xảy ra thế?” anh dịu dàng hỏi.
Để trả lời, những ngón tay nàng run rẩy trong tay anh như chú chim bị sa bẫy, và trong khoảnh khắc chúng níu lấy tay anh, níu với một sự tin cậy thống thiết, nhưng cũng với cả sự siết chặt tuyệt vọng của ai đó đang chết đuối.
“Tôi... tôi không thể... nói với ngài, thưa hầu tước.”
Lời nói gần như tiếng thì thầm và anh phải nghiêng đầu để lắng nghe chúng.
“Thế thì đừng cố. Sáng ra mọi thứ sẽ tốt đẹp hơn.”
“Tốt hơn!” nàng lặp lại, cứ như từ đó đáng ngạc nhiên lắm với nàng. “Tôi sẽ không bao giờ... không bao giờ quên – không bao giờ.”
Nàng gần như phát khóc lúc này. Cơn xúc động giữ nàng chết lặng giờ đang vỡ òa. Trong giây lát, những ngón tay nàng lại vịn lấy tay anh, trong giây lát tay kia của nàng, gần như vô thức kiếm tìm sự ấm áp trong cái ôm của anh, và rồi giống như một con nai nhỏ hoảng sợ, nàng rời khỏi anh.
“Tôi phải... đi.”
Nàng chỉ biết mình đang mong đợi tới chỗ trú ẩn trong căn phòng nàng. Nàng muốn được cô đơn, muốn được quên. Chân nàng như bay lên cầu thang, dọc theo hành lang và trong căn phòng ngủ khuất nẻo nàng nằm sóng soài, mặt úp xuống gối với nỗi đớn đau về đầu óc mà nước mắt không xoa dịu nổi.
Buổi sáng hôm sau Serena thấy đầu nặng trịch, cặp mắt quầng thâm vì thiếu ngủ. Mãi đến chiều muộn trước khi Eudora để nàng dậy, rồi nàng cũng không cố gắng rời phòng ngủ mà ngồi bên cửa sổ nhìn ra phía biển. Eudora mang sữa và đồ ăn tới. Serena uống sữa nhưng từ chối thức ăn, nói rằng nàng không có cảm giác thèm ăn.
Nàng chưa nói cho Eudora hay chuyện xảy ra. Chẳng hiểu sao nàng không thể chịu nổi việc kể lại thành lời những gì đã thấy; nhưng hình ảnh của nó vẫn ở đó, trước mắt nàng – những ngọn đuốc cháy thắp sáng mái vòm đá thô kệch, hình nhân to lớn nằm sóng soài trên nền tối, dòng máu đỏ thẫm. Liệu nàng có quên nổi nó không? Đến chiều khi Torqo khẽ rên rỉ vả sục mũi vào bàn tay mềm rũ của nàng, nàng mới nhớ ra nó đang gợi chuyến đi dạo thường kỳ.
“Tôi sẽ đi ra ngoài, Eudora,” Serena nói, nhỏm người thoát khỏi sự mơ màng với một nỗ lực cực lớn.
“Như thế tốt cho cô,” Eudora nói, “vì trông cô tái nhợt như xác chết vậy. Nếu cô là đứa trẻ như trước, tôi chắc chắn là cô đang ốm vì miễn cưỡng phải làm chuyện gì đó.”
Serena thở dài.
“Thật không may tôi không còn là đứa trẻ và điều làm tôi đau đớn không phải sắp xảy ra mà là chuyện đã rồi.”
Eudora đợi chờ bí mật, nhưng khi nó không tới, bà cũng không nói gì. Bà hiểu rất rõ những phút giây để dành của Serena kể từ khi nàng còn bé tí đến giờ, khi có điều gì đó làm nàng bị tổn thương và xáo động quá nhiều, nàng không thể nói ra mà chỉ chịu đựng. Serena đang chịu đựng; trong khi tim Eudora đang rỉ máu vì nàng, không có gì bà có thể làm ngoại trừ săn sóc nàng hết mức có thể, hi vọng rằng sớm hay muộn nàng sẽ lấy lại được sự tự tin.
Đi về phía chiếc tủ ly, bà lấy một chiếc mũ bện rơm, nhưng khi bà đưa cho Serena, nàng lắc đầu.
“Đưa cho tôi chiếc áo có mũ trùm,” nàng nói “Tôi thích mặc nó, vì nó che được mặt.”
“Trông cô mệt mỏi quá, quả đúng vậy, nhưng ngay cả như thế thì vẫn cực kỳ đẹp hơn thảy những ai khác tại nơi này.”
Serena mỉm cười trước tinh thần bè phái của Eudora.
“Tôi không nghĩ về dung mạo mình vì tự mãn, mà vì tôi không có tâm trạng để ý tới. Trong chiếc áo choàng, người ta khó lòng nhận ra tôi, và họ sẽ không nghĩ tôi bất lịch sự nếu vội vã đi ngay trước mắt họ.”
Nàng cảm thấy lúc này không thể nói chuyện nhẹ nhàng ngay cả với Isabel hay Nicholas.
“Nếu mình thấy ai,” nàng nghĩ, “mình sẽ quay ngược lại.”
Isabel đã gửi tin nhắn cho Serena lúc trước xem nàng có cưỡi ngựa với họ được không, nhưng nàng nhắn lại là nàng cảm thấy cực kỳ mệt mỏi và hi vọng được nghỉ tới bữa tối. Không có vẻ gì là cả Isabel lẫn Nicholas sẽ ở trong vườn, nhưng Isabel kỳ quặc và hay thay đổi kế hoạch như chong chóng nên chẳng ai chắc được hành tung của cô từ giờ này sang giờ khác.
Chiếc áo Serena đang mặc, bằng len màu xanh nhạt, viền ruy băng là của riêng nàng. Yvette đang may một chiếc khác bằng nhung viền lông chồn, nhưng nó chưa xong, và giờ đây nàng cảm thấy ơn trời khi có thể mặc thứ gì đó do chính nàng mua và trả tiền chứ không phải là món quà từ bà hầu tước.
Thật ngớ ngẩn khi để ý đến những điều nhỏ nhặt, Serena tự răn mình, trong khi có bao nhiêu vấn đề lớn lao và hệ trọng hơn phải đối mặt; dù sao nàng cũng cảm thấy một sự thỏa mãn nhỏ bé nhất định với sự thực chiếc áo choàng là của riêng nàng và bà hầu tước không có sợi dây liên hệ nào với nó.
Khi nàng đã sẵn sàng và Torqo biết rằng nó sắp được đi dạo đang chạy nhảy ầm ĩ trong phòng, Serena ra bên cửa sổ. Nàng nhìn xuống khu vườn phía dưới và không thấy một ai. Rồi nàng mở cửa đi vào căn phòng tháp canh nhỏ. Những chiếc cửa sổ ở đây mở cả về hướng đông và nam giúp nàng có được góc nhìn rất đẹp về những khu vườn.Ở đây cũng không có ai trong tầm mắt ngoại trừ một người làm vườn đang đi về phía những luống hoa.
“Cô có muốn tôi dẫn đường,” Eudora hỏi, “và xem xem có ai trên cầu thang không?”
Bà không hiểu ý định bất ngờ muốn một mình của Serena, nhưng bà cũng sẵn sàng tôn trọng nó và giúp nàng hết mình. Có cái gì đó đã xảy ra, cái gì đó khiến cho cô chủ của bà lên giường trắng bệch và run rẩy như đứa trẻ hoảng loạn. Nhưng dù nguyên nhân của nó là gì, bà cũng không sao hiểu được, ngay cả khi dò hỏi kín đáo những người hầu.
Eudora không thân thiện với Martha, bà không tin tưởng bởi bà ta là người hầu cận hầu tước phu nhân, và người hầu của hầu tước thì chẳng biết gì ngoại trừ có một nhóm lính phòng vệ bờ biển và kỵ binh đến lúc tối để tìm kiếm một chiếc tàu buôn lậu song không thấy gì. Có lẽ quý ngài Wrotham là kẻ gây nên chuyện, Eudora nghĩ, bà u ám lẩm bẩm, vì bà cũng ghét tên đàn ông đã quyến rũ Charmaine xinh đẹp. Serena quay người rời khỏi căn phòng tháp canh.
“Tôi sẽ đi xuống chiếc cầu thang nhỏ này,” nàng nói, và khẽ reo lên. “Không biết cánh cửa này dẫn đi đâu?” nàng hỏi.
Nàng trỏ vào cánh cửa trong tháp canh. Nó thấp và hẹp, với tay cầm chạm khắc cũ kỹ và then cửa nặng trịch.
“Tôi chưa bao giờ thử cả,” Eudora trả lời.
“Tôi đoán nó bị khóa rồi,” Serena nói, nhưng cùng lúc nàng đưa tay ra kéo then cửa. Cánh cửa mở ra. “Tại sao vậy, Eudora,” nàng kêu lên, “có các bậc thang ở đây, những bậc thang đi xuống. Bà có nghĩ nó dẫn lối ra vườn không?”
Eudora đi từ phòng ngủ ra nhìn. Những bậc thang nhỏ và phù hợp với tầm vóc cong cong của chiếc tháp, xoắn lại ngoài tầm nhìn.
“Tôi sẽ không ngạc nhiên nếu người xây dựng nơi này sử dụng những bậc thang như vậy làm nơi ẩn náu.”
“Nhưng tất nhiên thế,” Serena đồng tình, “và hiển nhiên là các bậc thang này dẫn thẳng tới vườn. Nó giải quyết khó khăn cho tôi, Eudora. Không ai trông thấy và tôi có thể vào trong ra ngoài nếu muốn.”
Bấy giờ nàng mỉm cười còn Eudora cảm thấy nhẹ người khi có thứ gì đó đã khuấy động nàng khỏi sự thờ ơ.
“Điều đó quả là hợp lý,” Eudora nói. “Torqo sẽ hộ tống cô, và chắc chiếc cầu thang cũng được dành để sử dụng nếu không thì cửa đã bị khóa.”
“Mau lên, Torqo,” Serena nói, và đi xuống cầu thang.
Nàng phải đi rất chậm, vì lối đi hẹp và quanh co, nhưng cũng đủ ánh sáng để nhìn từ những khe hở đặt mũi tên xen trong những bức tường. Họ đi xuống, đi xuống tới khi hết cầu thang và nàng tới một cánh cửa khác. Trời khá tối và nàng phải cảm nhận bằng tay cho tới khi tìm thấy một chiếc then cửa tương tự như trên. Nó khá chặt và nàng phải đẩy sao cho cánh cửa thình lình bật tung ra.
Nàng thấy mình, không như dự tính đang ở trong vườn hay một hành lang, mà đang đứng ở đầu một cầu thang ngắn có những bậc thang bóng loáng dẫn thẳng vào một căn phòng. Căn phòng được xếp đầy sách và ở giữa, ngồi bên chiếc bàn lớn cũng với những chồng sách chất cao là một ông già. Trong một lúc, thật khó mà biết ai mới là người ngạc nhiên hơn – Serena hay người đang cư ngụ trong phòng.
Rồi Torqo, nôn nóng vì bị hạn chế bởi chiếc cầu thang chật hẹp, lọt qua Serena và chạy bổ vào trong phòng. Không đợi mời chào, nó chạy tới người đàn ông ngồi bên bàn, hít ngửi ông và vẫy vẫy đuôi. Người đàn ông đưa tay ra vuốt ve đầu nó, rồi đứng dậy.
“Sao cô không vui lòng vào trong, quý cô?” ông hỏi Serena.
Serena đi xuống những bậc thang bóng loáng và bước vào căn phòng.
“Tôi phải xin ngài thứ lỗi, thưa ngài,” nàng nói, nhún gối chào. “Tôi đã cho rằng những bậc thang này, dẫn thẳng từ phòng ngủ của mình sẽ đưa tôi ra vườn. Tôi đang định đưa chú chó của mình đi dạo.”
“Đây nguyên là phòng gác,” đó là câu trả lời, “và những bậc thang đó dẫn tới một trong những tháp canh. Chúng bị bỏ không nhiều năm rồi và ta tưởng rằng cánh cửa phía trên bị khóa lại.”
“Tôi thực sự xin lỗi, thưa ngài,” Serena lại nói.
“Nhưng xin mời! Ta đảm bảo với quý cô, rằng cô rất được chào đón.” Ông lơ đãng đặt tay lên chiếc đầu hói. “Ôi, trời ơi, mái tóc giả của ta đâu rồi? Bọn ta đã quá quen với việc không có khách nên ta e là trông không được chỉn chu cho lắm.”
Ông nhìn quanh phòng, và nhận ra mớ tóc giả đang treo trên một chiếc ghế. Ông nhặt nó lên, chụp nhanh lên đầu, hơi uốn cong sao cho nó làm ông có vẻ ngang tàng. Rồi ông đi qua lò sưởi và dọn một chiếc ghế bành lớn đang chứa đầy sách trên chỗ ngồi.
“Cô ngồi xuống chứ, quý cô?” ông hỏi, với một vẻ phong nhã lịch sự cho Serena thấy rõ ràng ông không phải là một thủ thư bình thường như nàng ngờ lúc đầu. Vai ông còng xuống, nhưng hiển nhiên khi còn trẻ ông là một người đàn ông to lớn.
Khi ông bắt đầu nhìn lên bàn, Serena thấy gương mặt ông dường như quen thuộc, nhưng đó chỉ là một ấn tượng thoáng qua, và giờ thì nàng thấy gương mặt đó hằn những nếp tuổi già và xanh xao như thể ốm yếu.
“Ngài có bao nhiêu là sách ở đây!” nàng nhận xét, nhìn vào khối sách choán đầy từ giá sách xuống sàn, lên ghế, lên bàn và thực tế là mọi nơi trong căn phòng.
“Thư viện của ta,” lão tôn ông tự hào nói. “Ta đang viết về lịch sử và ta cần rất nhiều sách để tham khảo.” Ông nhìn về phía một gói hàng còn nguyên đai nguyên kiện giữa phòng. “Xe ngựa trạm chuyển chúng đến tối qua. Ta chưa tìm được thời giờ để mở, nhưng hi vọng là chúng chứng tỏ tầm quan trọng. Cô có thích sách không, quý cô? ”
“Thực sự là có, thưa ngài, vì ở nhà tôi cũng có một thư viện rất lớn. Cha tôi không thích đọc song ông tôi là một học giả. Có lẽ ngài đã nghe nói đến ông – Ngài Hubert Starverly?”
“Hubert Starverley! Sao chứ, chúa phù hộ ta, ông ấy học cùng trường với ta. Một gã tóc vàng, ta nhớ ra rồi, kẻ khiến chúng ta mất hết kiên nhẫn vì gã luôn ẵm trọn mọi giải thưởng.”
Serena cảm thấy thích thú tò mò rằng ở đây lại có ai đó quen biết gia đình nàng.
“Ngài đã học ở Eton sao, thưa ngài?”
“Chính thế. Tất cả gia đình ta đều học ở Eton.”
“Và tên của ngài? Ngài có thể cho tôi biết tên ngài...”
Serena bắt đầu, nhưng ngay lúc đó cánh cửa mở ra. Một ông già nhỏ bé mặc chế phục nhà Vulcan bước vào phòng.
“Tôi nghe thấy tiếng nói, thưa quý ngài...” ông ta bắt đầu. Rồi ông thấy Serena và dừng lại giật mình thảng thốt.
“Ta có khách, Newman; và trời đất, ta đang quên mất tác phong của mình. Mang cho quý cô đây tách trà, Newman.”
“Dạ rõ, thưa quý ngài.”
Vẻ ngạc nhiên cửa người hầu lúc nhìn Serena trông thật tức cười, và khi ông ta rời khỏi phòng, lão tôn ông tủm tỉm cười.
“Newman tin rằng chắc cô phải rơi từ ống khói xuống. Chỉ có một lối vào nơi này của tòa nhà và cánh cửa đã bị cài then và ngáng lại.”
“Ngài thích cô độc thế này sao, thưa ngài?”
“Phải... phải, ta thích cô độc, và ta cũng có đủ khách rồi. Con trai ta, tất nhiên, đến thăm ta thường xuyên, và thỉnh thoảng, vợ ta. Nhưng Harriet luôn luôn bận rộn. Bà ấy luôn luôn ham mê giải trí.”
Serena nhìn ông chằm chằm. Rồi miệng nàng hé ra và khẽ kêu lên. Lão tôn ông nhìn nàng.
“Trời ơi, trời ơi, lẽ ra ta không nên nói. Cô có thể quên đi không?” Mắt ông bỗng lấp lánh. “Không, lẽ ra ta không nên. Đó là lý do tại sao ta không có khách, cô thấy đấy, cô bé thân mến, ta không thể giữ nổi bí mật, chẳng bao giờ giữ nổi.”
Ông đẩy mớ tóc giả ra xa trên trán khiến trông ông khá khôi hài; rồi lại kéo nó về phía trước và giờ thì Serena có thể dễ dàng thấy ấn tượng đầu tiên của nàng về khuôn mặt ông là nét quen thuộc. Justin giống cha mình. Họ có cùng những đường nét dứt khoát, cùng đôi mắt xám ánh thép dưới cặp lông mày rậm, cùng chiếc hàm, cùng chiếc mũi thanh thanh quý tộc. Nhưng nếu đây là cha của Justin... Serena bỗng nhiên vỗ tay lại. Nếu đây là cha của Justin, thì Justin không phải là quý ngài Vulcan, không được xưng hô bằng tước “hầu”.
Lão tôn ông lại hơi tủm tỉm cười.
“Ta đáng bị ruồng bỏ lần nữa. Ta cứ luôn như vậy, cách này hay cách khác; nhưng ta nghĩ ta có thể tin cậy cháu gái của Hubert Staverley! Cô có hứa với ta sẽ không làm lộ những gì ta sắp kể cho cô không?”
“Tôi hứa với ngài,” Serena kêu lên; “và tôi nghĩ tôi đã đoán ra bí mật của ngài. Ngài là hầu tước Vulcan – cha của Justin.”
“Đúng rồi, cô bé thân yêu. Đúng rồi. Nhưng ta không bao giờ được tiết lộ bí mật. Đó là một câu chuyện dài, và theo quan điểm khiêm tốn của ta không phải là chuyện hấp dẫn gì. Nhưng cô sẽ tự đánh giá cho mình. À, trà của chúng ta đến rồi.”
Người hầu bước vào với khay trà lớn bằng bạc. Ông ta đặt nó xuống chiếc bàn nhỏ bên lò sưởi nơi hầu tước của ông đã vội vã thu dọn đống sách vở.
“Tôi đã pha trà, thưa Hầu tước,” ông ta nói thấp giọng.
“Tốt! Tốt!”
Lão tôn ông quay sang Serena.
“Thứ lỗi cho ta, quý cô, nếu ta không tự pha trà được cho cô, nhưng ta hay đãng trí. Đôi khi ta cho liền mấy thìa – quá nhiều và rất phung phí – lúc khác ta lại quên cho vào trà. Newman làm cho ta. Ông ấy rất cẩn thận. Chúng ta phải rất khó khăn để lo chuyện trà nước.”
Ông rót cho Serena một ly trà, và bỗng dưng Serena thấy dấy lên trong lòng mối thương cảm. Liệu ông có hay những sự tiêu dùng lãng phí mà không hề bị chú ý ở phần kia của tòa nhà không? Hay liệu ông đã bao giờ đoán ra loại trà ông uống có thể được nhập khẩu mà không hề đóng thuế?
Người hầu rút lui; nhấp một ngụm trà, hầu tước nói:
“Vì con đã phát hiện ra ta, công bằng là con nên biết lý do tại sao ta ở đây, mặt khác con có thể tưởng tượng ra mọi thứ, có không?”
“Con sẽ vui mừng nếu được ngài tin cậy kể cho con, thưa Hầu tước; nhưng nếu ngài không muốn kể những gì quá riêng tư... con cũng hiểu.”
“Và tò mò suốt phần đời còn lại sao?” lão tôn ông hỏi, rồi ông phá lên cười. “Không, không, cô bé thân yêu, ta cũng đã từng có thời tuổi trẻ, sự thật là ta chẳng bao giờ ngừng tò mò khi tìm hiểu hay khám phá về người khác. Giờ đây ta có thích thú khám phá sách vở hơn, nhưng ở tuổi con ta thích đi dạo bằng hai chân mình. Ờ, để bắt đầu. Con đã gặp vợ ta chưa?”
“Dạ, thưa hầu tước.”
“Vậy con trai ta?”
“... Dạ.”
Khó mà không lưỡng lự trước khi trả lời, nhưng ông lão có vẻ khá hài lòng trước từ một âm tiết đó.
“Nó là một chàng trai tuyệt vời và ta rất tự hào vì nó. Nó chưa bao giờ quên ta, chưa bao giờ. Đôi khi chúng ta đọc cùng nhau, nhưng đôi khi chúng ta chỉ nói chuyện. Nó kể với ta về thế giới bên ngoài. Ta chưa bao giờ hối tiếc vì rời bỏ nó, nhưng Justin vẫn muốn chắc chắn là ta không hối tiếc. Một cậu bé ngoan, một cậu bé rất ngoan.”
Trong giây lát, ông lão dường như quên mất mình đang định kể cho Serena về câu chuyện của mình; rồi cuối cùng ông tiếp tục:
“Nhưng con muốn biết tại sao ta ở đây. Ờ, tất cả bắt đầu ở chỗ ta là một con bạc.”
“Một con bạc!” Serena kêu lên.
“Phải, phải, ta biết con đang nghĩ gì. Vậy ta giống vợ ta. Nhưng cũng không hẳn thế. Ta không để tâm vào chuyện đó, ta chơi một ít khi ở London, và không quá nhiều, nếu con hiểu ta. Đôi khi ở Cocoa Tree hay ở Watier’s ta sẽ chơi đôi chút trước khi đưa Harriet tới Almack’s. Một ván chơi trong nhà bè bạn để thì giờ trôi qua khi bà ấy chán khiêu vũ, đó là tất cả những ý nghĩa của cờ bạc với ta. Ta không thích thú gì những thứ rác rưởi chết tiệt đó, ta yêu sách, và ta đã bắt đầu viết lịch sử của Mandrake.”
“Đó là những gì ngài đang viết sao?” Serena ngắt lời.
“Và đã viết trong hai mươi năm qua. Nó sẽ là một câu chuyện hay khi kết thúc... nếu ta có thể kết thúc được nó.”
Ông nhìn quanh căn phòng hơi thở dài, rồi lại tiếp tục:
“Nói thẳng với con là ta luôn luôn quan tâm đến sách hơn hết thảy mọi thứ khác trên đời. Đó là Harriet bảo, và bà ấy thề là lẽ ra ta phải cưới lấy một quyển sách! Dĩ nhiên đó là lời giễu cợt, nhưng cũng có phần sự thật trong đó. Ta cứ như con chó theo đuôi bà ấy. Ta thực sự quá già khi kết hôn với đứa trẻ xinh đẹp ấy khi ta trông thấy bà lần đầu; nhưng bà ấy giống như tất cả các câu chuyện thần tiên ta đã đọc khi còn là một cậu bé con ghép lại thành một. Không có từ ngữ nào thực sự có thể miêu tả nổi bà... khuôn mặt không ai sánh kịp... và ta nghĩ... ta tin rằng ta đã làm cho bà hạnh phúc.”
Ông lão thở dài và nhìn chăm chăm vào ngọn lửa.
“Nhưng ta đã già, quá già, ta nghĩ thế. Ta nhanh chóng cảm thấy mệt mỏi vì những chuyện xã hội, cuộc sống phóng đãng. Nó không cho ta thời gian nào để đọc, và hiển nhiên là không còn thời giờ để viết nữa. Ta trở về Mandrake và để lại Harriet một mình. Sau đó, bà ấy đột ngột quay về. Chúng ta bất hoà lần đầu tiên trong đời, vì bà ấy muốn thay đổi ngôi nhà, bà ấy muốn nó đầy ắp khách khứa. Ta cho là ta đã quen ở một mình rồi, vì ta không thích có khách trong nhà. Bên cạnh đó ta muốn sống với cuốn sách của ta”
Có tiếng thở dài nhẹ nữa, Serena hiểu lão tôn ông đang nhớ lại những bất đồng và tranh cãi. Rồi ông tiếp tục:
“Khi mọi thứ đang trong tình trạng khó khăn nhất, một người bạn của ta ngã bệnh. Ông ấy là một nhân vật rất nổi bật lưu vong từ Pháp, hoàng tử Charles de Fauberg St Vincent. Ông ấy đang trong thời kỳ sung sức nhất nhưng tim ông ấy lại có vấn đề lớn – giống như ta cũng phải chịu đựng suốt đời mình; chính xác là từ khi ta học ở Eton với ông của con! Trở thành một người ngoại quốc và đau bệnh, vị hoàng tử nghĩ rằng mình sắp chết. Không có thế lực, không bạn bè từ nước ngoài, ngay cả người thân nhất. Ông ấy là bạn của Harriet và vợ ta xin ta nói chuyện, động viên ông. Không có chút can trường nào, ông nằm đó chờ thần chết mang mình đi. Ta tới bên giường ông.”
“ ‘Charles, bạn thân mến,’ ta nói, ‘chẳng có gì nghiêm trọng với ông đâu. Dậy đi, quay lại với cuộc đời đi. Còn rất nhiều năm đầy lạc thú trên đời dành cho ông.’ ‘Nó quá muộn rồi,’ vị hoàng tử trả lời, ‘quá muộn rồi, bạn già của tôi, vì tôi đang hấp hối.’ ‘Hấp hối!’ Tôi kêu lên. ‘Ông quả là cáo già, vì ông chẳng hấp hối hơn tôi đâu. Cả hai trái tim của chúng ta đều làm ta khổ suốt, nhưng điều đó cũng không nói lên rằng chúng ta, bất cứ ai trong chúng ta phải xuống mồ trong một phần tư thế kỷ nữa.’”
“Ông ấy không trả lời ta; vì thế, cương quyết phải khuấy động ông, ta nói: ‘Tôi sẽ cược với ông, Charles, là tôi chết trước ông. Nghe có giống một lời đề nghị trong thể thao không?’ Ông ấy mỉm cười yếu ớt với ta. ‘Ông sẽ mất sạch tiền đó, Vulcan.’ Ta lắc đầu. ‘Tôi sẽ lấy của ông,’ ta nói. ‘Thế ông định cược gì?’ ‘Bất cứ thứ gì ông thích,’ ông ta trả lời, ‘vì chắc chắn tôi sẽ thắng.’ ‘Tôi đặt ông mười ngàn đồng vàng,’ ta đáp lại. ‘Không, hai mươi ngàn đồng vàng, hai mươi ngàn đồng vàng rằng tôi sẽ chết trước ông, Charles.’ Lần đầu tiên trong nhiều tuần lễ, ông ta phá lên cười. ‘Tôi sẽ sống chỉ để chọc tức ông,’ ông ấy kêu lên.”
Lão tôn ông thở một hơi dài.
“Con có đoán ra được phần kết của câu chuyện không?”
“Con nghĩ thế,” Serena trả lời.
“Vợ ta muốn tiền. Bà ấy muốn nó cho Mandrake; ta muốn cô độc. Ta đoán giờ nó là một việc sai trái, nhưng hoàng tử là một người giàu có. Hai mươi ngàn đồng vàng chỉ là con số nhỏ với ông ấy nhưng là gia tài lớn với Mandrake. Thế là ta chết; ta chết bởi bệnh đậu mùa! Chỉ có vợ ta và người hầu thân cận nhất chăm sóc những ngày bệnh cuối cùng. Quan tài được đóng nắp trước khi bất cứ ai có thể trông thấy và lây bệnh. Ta nằm nghỉ trong sự tráng lệ của hầm mộ gia tộc. Nhưng ta ở đây – một cái xác sống nguyên. ”
Lão tôn ông tủm tỉm cười và Serena cũng phải bật cười.
“Quả là một câu chuyện kinh ngạc,” nàng kêu lên, “đủ kích thích cho một quyển sách.”
“Ta thường ngẫm nghĩ về chuyện đó,” hầu tước già nói; “có lẽ một ngày kia ta sẽ viết câu chuyện, nhưng nó sẽ không bao giờ được xuất bản.”
“Còn con trai của ngài? Anh ấy có bận tâm không?” Serena không thể nhịn nổi câu hỏi này.
“À, Justin! Nó không biết trong hơn một năm. Lúc đầu nó rất giận dữ, thực sự ta chưa bao giờ trông nó nổi giận đến thế. Nó thề sẽ lật tung mọi chuyên. Nó khiến cho cả hai ta đều rất khó khăn, nhưng chúng ta đã thuyết phục nó – ít ra là Harriet đã làm được. Một lý do là, tiền đã tiêu hết và không ai muốn trả lại, lý do nữa là ta toại nguyên. Ta thích cuộc sống này hơn. Ta có mọi thứ ta cần – tiện nghi, người hầu của riêng ta, góc nhìn từ cửa sổ và những kiến thức mà ta ở đây, tại Mandrake này.”
Hầu tước già phác tay làm một cử chỉ và thêm:
“Thêm nữa, ta có thời gian để viết lách. Giá như con biết ta ghét những người đần độn phải gặp đêm này qua đêm khác đến mức nào! Nếu họ có thể đọc, họ sẽ không bao giờ làm trừ phi chắc chắn rằng họ được mời đến mọi dạ tiệc sang trọng. Ồ, và những bữa dạ tiệc dài vô tận kia nữa! Ơn chúa giờ đây ta được tha khỏi nỗi buồn chán của những người đẹp! ”
Ông nói như một cậu bé vô công rồi nghề ham chơi, và Serena phải bật cười.
“Con rất biết ơn ngài, thưa hầu tước,” nàng nói, “vì đã tin tưởng tiết lộ bí mật của ngài cho con. Con đảm bảo là nó sẽ được giữ kín. Chắc bây giờ con phải đi nếu không sẽ xâm phạm đến sự cô độc của ngài.”
“À, nhưng thi thoảng ta thích có khách,” hầu tước già nói, “đặc biệt là khi họ trẻ trung và xinh đẹp như con.”
Serena mỉm cười với ông.
“Cám ơn hầu tước vì lời khen ngợi. Con có thể tới đây nữa không?”
“Ta sẽ rất đau lòng nếu con không tới. Nhưng việc con tới thăm sẽ là một bí mật, nhớ nhé, và con không bao giờ được tiết lộ với ai chuyện chúng ta gặp nhau.”
“Con hứa danh dự với ngài, thưa hầu tước, rằng sẽ không ai hay con tìm được đường xuống đây. Và nếu ngài thôi không muốn con đến, sẽ rất đơn giản – ngài chỉ việc khóa cửa.”
“Ta không bao giờ nghĩ về điều đó,” vị hầu tước già nói; “nhưng nếu cửa cứ để mở, luôn luôn mở; con có hứa là sẽ trở lại không?”
“Con hứa với ngài điều đó.”
“Và giờ thì con muốn ra vườn. Ta có lối đi riêng, tất nhiên rồi, và ta ra ngoài lúc đêm để hưởng khí trời. Newman và ta đi dạo cùng nhau. Có cái gì đó thật tuyệt diệu ở Mandrake lúc đêm trăng. Đêm nào đó con phải tới chỗ ta và để ta cho con xem nó đẹp đến nhường nào.”
“Con rất muốn điều đó,” Serena giản dị nói.
Ông lão rung chuông và ngay lập tức cửa mở.
“Dẫn quý cô đây ra vườn, Newman.”
Serena nhún gối chào.
“Tạm biệt ngài, hầu tước, và cám ơn ngài lần nữa.”
“Xin phục vụ con, cô bé yêu quý.”
Ông nâng tay nàng lên môi. Trong giây lát, khi ông nghiêng đầu, bờ vai rộng của ông che bóng ánh sáng từ cửa sổ, và nàng tưởng như Justin đang hôn tay mình.
Danh sách chương