Khi Harvath quay trở lại phòng bệnh, cha mẹ Tracy, Bill và Barbara Hastings đang ngồi bên giường cô. Ông Bill Hastings là một người đàn ông to lớn, cao hơn một mét tám và nặng gần một tạ. Trước đây ông chơi cho đội bóng ở Yale và trông vẫn có vẻ còn chơi được. Ông có mái tóc màu xám và Harvath đoán ông khoảng sáu lăm tới gần bảy mươi tuổi. Thấy Harvath bước vào phòng, ông nhìn lên và hỏi, “Có thay đổi gì không?”.
“Không ạ,” Harvath trả lời.
Bà Barbara mỉm cười với anh, “Anh lại ở đây cả buổi tối phải không?”.
Harvath không trả lời. Anh chỉ gật đầu. Đối mặt với bố mẹ Tracy còn khó hơn cả việc thức đêm cạnh giường cô. Anh cảm thấy mình phải chịu trách nhiệm nặng nề trước những gì xảy ra đối với cô. Anh không thể tin sao họ lại tốt với anh đến thế. Giá như họ trách mắng anh về tất cả chuyện xảy ra với con gái họ đã đành, đằng này, họ chẳng hề có một lời mắng mỏ.
“Hai bác thấy khách sạn thế nào ạ?” Harvath gắng hỏi. Sự im lặng trong căn phòng không thể nào chịu nổi và anh biết mình phải bắt đầu một cuộc nói chuyện nặng nề.
“Ổn mà,” bà Barbara trả lời khi với lấy tay Tracy và bắt đầu vuốt ve cẳng tay cô. Mẹ Tracy là một người phụ nữ quý phái tuyệt vời. Mái tóc màu đỏ sẫm của bà nằm trong mũ thật hoàn hảo và những móng tay bà được cắt tỉa thật đẹp. Bà mặc một chiếc áo lụa, váy của hãng Armani dài chấm gối, tất và giày đắt tiền.
Mặc dù Harvath chẳng bao giờ thốt ra lời nào sáo rống, nhưng rõ ràng là trông Tracy giống bà.
Ông bà Hastings là một cặp rất hấp dẫn. Với số tài sản mà ông Bill Hastings đã tích lũy được trên thị trường tài chính, không có gì đáng ngạc nhiên khi họ gần như là những nhân vật ngồi lì trên những trang tiêu biểu của xã hội Manhattan.
Sau vụ tấn công vào thành phố New York ngày 3 tháng 7, họ đã bàn về việc rút ngắn kỳ nghỉ hè ở miền Nam nước Pháp, nhưng Tracy thuyết phục họ ở lại. Trong thời gian tới, Manhattan sẽ là cơn ác mộng nếu trở lại và ghé qua vì vậy họ càng lâu trở về càng tốt. Kế hoạch của họ đã thay đổi ngay khi Tracy bị bắn. Họ thuê một chiếc máy bay và vội vã lao tới Washington để đến bên con gái.
Harvath đang cố để nói một chuyện gì đó khác khi một y tá ghé đầu vào cửa và nói, “Điệp vụ Harvath? Có một quý ông muốn gặp anh. Ông ấy đang chờ ở phòng khách”.
“Được, tôi sẽ ra ngay,” Harvath trả lời. Anh rất mừng để cho ông bà Hastings có lúc riêng tư bên con gái.
Bước vòng qua ông Hastings, Harvath cúi xuống và thì thầm vào tai Tracy rằng một lát nữa anh sẽ quay lại. Anh siết chặt tay cô âu yếm, rồi quay đầu bước ra cửa.
Ngay khi anh tới chỗ nắm đấm cửa, ông Bill Hastings nói, “Nếu lại là anh chàng từ văn phòng ấy, hãy nói với anh ta rằng chúng ta không tìm thấy chứng minh thư của Tracy trong những vật dụng cá nhân của nó”.
Harvath gật đầu và đi ra. Ra ngoài căn phònG, anh rút tấm bằng lái xe của Tracy ra khỏi túi và ngắm nghía. Trời ơi, cô ấy đẹp quá. Anh không đủ dũng cảm để nói với ông Bill Hastings rằng anh biết vì sao chứng minh thư của cô ấy lại biến mất. Anh và Tracy có ít thời gian bên nhau và họ chưa kịp để chụp ảnh.
Mặc dù anh cảm thấy có lỗi khi lừa dối cha mẹ cô, nhưng Harvath không có ý định trả lại. Đó là một trong rất ít những thứ để anh nhớ lại cô như thế nào, trước khi họ bị chia lìa.
Bước vào phòng khách, Harvath thấy sếp, người bạn lâu ngày không gặp, Gary Lawlor, đang chờ mình. “Cô ấy thế nào rồi?” ông hỏi.
“Vẫn thế,” Harvath trả lời. “Đã điều tra ra cái gì mới chưa ạ?”
Gary ra hiệu cho anh ngồi xuống. Đó là một căn phòng không có cửa sổ với một chiếc tivi trên giá đỡ trên tường. Harvath ngồi xuống và chờ đợi một người đàn ông, người đã trở nên giống người cha thứ hai của anh, đóng cửa lại và ngồi xuống.
Khi Gary ngồi xuống ông nói rất nghiêm trọng. “Có thể chúng ta có lỗi trong vụ này.”
Harvath ngồi chồm người về phía trước. “Lỗi thế nào?”
“Nó liên quan tới chỗ máu vẽ trên cửa nhà cháu.”
“Thì sao ạ?”
“Bây giờ, những người ở bên tòa án đã biết đó không phải là máu người.”
“Vậy là máu gì?”
“Máu cừu.”
Harvath bối rối. “Máu cừu sao? Vậy thì chẳng có ý nghĩ gì.”
“Không,” Gary trả lời. “Nhưng đó là những gì họ thấy lẫn lộn với thứ máu mà bác muốn nói với cháu.”
Harvath không nói gì. Anh chỉ chờ đợi.
Vươn người về phía trước, Lawlor hạ giọng và nói, “Sau đám tang của Bob Herrington, ngài Bộ trưởng Bộ quốc phòng đã cho cháu đi cùng và nói cháu có nhiệm vụ phải tìm ra kẻ giết Herrington. Cháu có nhớ ông ấy đã kể với cháu rằng chúng đang bố trí để ông ấy trốn thoát để có thể theo dõi ông ấy mà lần ra những người đang làm việc với ông ấy không?”.
“Vâng, rồi sao ạ?”
“Vậy, cháu có nhớ chúng lên kế hoạch lần theo ông ấy thế nào không?” Ông Lawlor hỏi.
Harvath thoáng nghĩ. “Chúng pha máu của ông ấy với một loại đồng vị phóng xạ để tạo nên một loại tín hiệu cho phép chúng theo dõi qua vệ tinh?”.
Lawlor tựa vào ghế và theo dõi Harvath xử lý thông tin.
“Máu cừu ở đây có chứa đồng vị phóng xạ?”
Lawlor gật đầu.
“Không thể nào. Chính cháu theo dõi kẻ giết Bob.” Harvath suýt nữa thì thêm vào và cháu đã nhìn thấy ông ấy chết khi ông ấy nhận ra ông ấy không phát hiện ra tên khủng bố trả phòng.
Mặc dù Harvath nghi ngờ cỏ kẻ nào đó đã sống sót trong vụ việc anh làm với Mohammed bin Mohammed, đúng là anh không thể nào khẳng định rằng người đàn ông đó đã chết.
“Họ không tin đó là Mohammed,” Lawlor nói tiếp. “Từ những gì tôi có thể thu thập được cho thấy đây là một loại đồng vị phóng xạ hoàn toàn khác.”
“Chúng chủ ý trộn vào máu cừu và sơn lên cửa trước nhà cháu phải không?” Harvath hỏi.
Ông Lawlor lại gật đầu.
“Tại sao?”
“Ai đó đang gửi cho cháu một lời nhắn.”
“Rõ rồi, nhưng là ai? Nếu đó là một loại đồng vị phóng xạ, dù khác với loại sử dụng trên cơ thể Mohammed, khó có thể chỉ ra nó xuất phát từ đâu. Chúng ta sẽ bắt đầu từ đó.”
“Không dễ như vậy đâu,” ông Lawlor cảnh báo.
“Tại sao không? Tất cả là chương trình của Bộ Quốc phòng. Họ lưu giữ hồ sơ của bất kỳ ai. Hãy liên lạc với văn phòng Bộ Quốc phòng và cho ông ta biết rằng chúng ta cần tiếp cận.”
“Tôi đã thử rồi.”
“Và?” Harvath hỏi đầy vẻ sốt ruột.
“Không đi đến đâu cả.”
“Không ư? Hẳn là bác đùa cháu.”
Lawlor lắc đầu. “Rất tiếc là tôi không đùa.”
“Vậy chúng ta đến chỗ tổng thống. dù Bộ trưởng Bộ Quốc phòng không đồng ý nhưng nếu tổng thống Rutledge yêu cầu ông ta mở hồ sơ, tin cháu đi, ông ta sẽ phải mở.” Harvath đáp lời.
“Tôi đã nói chuyện với ngài tổng thống Rutl. Chẳng đi đến đâu cả.”
Harvath không thể tin vào tai mình nữa. “Cháu muốn tự mình đi gặp tổng thống.”
“Ông ấy biết cháu sẽ nói thế,” Lawlor an ủi. “Và ông ấy cảm thấy nợ cháu điều đó. Có một chiếc xe đang đợi chúng ta ở dưới kia.”
“Không ạ,” Harvath trả lời.
Bà Barbara mỉm cười với anh, “Anh lại ở đây cả buổi tối phải không?”.
Harvath không trả lời. Anh chỉ gật đầu. Đối mặt với bố mẹ Tracy còn khó hơn cả việc thức đêm cạnh giường cô. Anh cảm thấy mình phải chịu trách nhiệm nặng nề trước những gì xảy ra đối với cô. Anh không thể tin sao họ lại tốt với anh đến thế. Giá như họ trách mắng anh về tất cả chuyện xảy ra với con gái họ đã đành, đằng này, họ chẳng hề có một lời mắng mỏ.
“Hai bác thấy khách sạn thế nào ạ?” Harvath gắng hỏi. Sự im lặng trong căn phòng không thể nào chịu nổi và anh biết mình phải bắt đầu một cuộc nói chuyện nặng nề.
“Ổn mà,” bà Barbara trả lời khi với lấy tay Tracy và bắt đầu vuốt ve cẳng tay cô. Mẹ Tracy là một người phụ nữ quý phái tuyệt vời. Mái tóc màu đỏ sẫm của bà nằm trong mũ thật hoàn hảo và những móng tay bà được cắt tỉa thật đẹp. Bà mặc một chiếc áo lụa, váy của hãng Armani dài chấm gối, tất và giày đắt tiền.
Mặc dù Harvath chẳng bao giờ thốt ra lời nào sáo rống, nhưng rõ ràng là trông Tracy giống bà.
Ông bà Hastings là một cặp rất hấp dẫn. Với số tài sản mà ông Bill Hastings đã tích lũy được trên thị trường tài chính, không có gì đáng ngạc nhiên khi họ gần như là những nhân vật ngồi lì trên những trang tiêu biểu của xã hội Manhattan.
Sau vụ tấn công vào thành phố New York ngày 3 tháng 7, họ đã bàn về việc rút ngắn kỳ nghỉ hè ở miền Nam nước Pháp, nhưng Tracy thuyết phục họ ở lại. Trong thời gian tới, Manhattan sẽ là cơn ác mộng nếu trở lại và ghé qua vì vậy họ càng lâu trở về càng tốt. Kế hoạch của họ đã thay đổi ngay khi Tracy bị bắn. Họ thuê một chiếc máy bay và vội vã lao tới Washington để đến bên con gái.
Harvath đang cố để nói một chuyện gì đó khác khi một y tá ghé đầu vào cửa và nói, “Điệp vụ Harvath? Có một quý ông muốn gặp anh. Ông ấy đang chờ ở phòng khách”.
“Được, tôi sẽ ra ngay,” Harvath trả lời. Anh rất mừng để cho ông bà Hastings có lúc riêng tư bên con gái.
Bước vòng qua ông Hastings, Harvath cúi xuống và thì thầm vào tai Tracy rằng một lát nữa anh sẽ quay lại. Anh siết chặt tay cô âu yếm, rồi quay đầu bước ra cửa.
Ngay khi anh tới chỗ nắm đấm cửa, ông Bill Hastings nói, “Nếu lại là anh chàng từ văn phòng ấy, hãy nói với anh ta rằng chúng ta không tìm thấy chứng minh thư của Tracy trong những vật dụng cá nhân của nó”.
Harvath gật đầu và đi ra. Ra ngoài căn phònG, anh rút tấm bằng lái xe của Tracy ra khỏi túi và ngắm nghía. Trời ơi, cô ấy đẹp quá. Anh không đủ dũng cảm để nói với ông Bill Hastings rằng anh biết vì sao chứng minh thư của cô ấy lại biến mất. Anh và Tracy có ít thời gian bên nhau và họ chưa kịp để chụp ảnh.
Mặc dù anh cảm thấy có lỗi khi lừa dối cha mẹ cô, nhưng Harvath không có ý định trả lại. Đó là một trong rất ít những thứ để anh nhớ lại cô như thế nào, trước khi họ bị chia lìa.
Bước vào phòng khách, Harvath thấy sếp, người bạn lâu ngày không gặp, Gary Lawlor, đang chờ mình. “Cô ấy thế nào rồi?” ông hỏi.
“Vẫn thế,” Harvath trả lời. “Đã điều tra ra cái gì mới chưa ạ?”
Gary ra hiệu cho anh ngồi xuống. Đó là một căn phòng không có cửa sổ với một chiếc tivi trên giá đỡ trên tường. Harvath ngồi xuống và chờ đợi một người đàn ông, người đã trở nên giống người cha thứ hai của anh, đóng cửa lại và ngồi xuống.
Khi Gary ngồi xuống ông nói rất nghiêm trọng. “Có thể chúng ta có lỗi trong vụ này.”
Harvath ngồi chồm người về phía trước. “Lỗi thế nào?”
“Nó liên quan tới chỗ máu vẽ trên cửa nhà cháu.”
“Thì sao ạ?”
“Bây giờ, những người ở bên tòa án đã biết đó không phải là máu người.”
“Vậy là máu gì?”
“Máu cừu.”
Harvath bối rối. “Máu cừu sao? Vậy thì chẳng có ý nghĩ gì.”
“Không,” Gary trả lời. “Nhưng đó là những gì họ thấy lẫn lộn với thứ máu mà bác muốn nói với cháu.”
Harvath không nói gì. Anh chỉ chờ đợi.
Vươn người về phía trước, Lawlor hạ giọng và nói, “Sau đám tang của Bob Herrington, ngài Bộ trưởng Bộ quốc phòng đã cho cháu đi cùng và nói cháu có nhiệm vụ phải tìm ra kẻ giết Herrington. Cháu có nhớ ông ấy đã kể với cháu rằng chúng đang bố trí để ông ấy trốn thoát để có thể theo dõi ông ấy mà lần ra những người đang làm việc với ông ấy không?”.
“Vâng, rồi sao ạ?”
“Vậy, cháu có nhớ chúng lên kế hoạch lần theo ông ấy thế nào không?” Ông Lawlor hỏi.
Harvath thoáng nghĩ. “Chúng pha máu của ông ấy với một loại đồng vị phóng xạ để tạo nên một loại tín hiệu cho phép chúng theo dõi qua vệ tinh?”.
Lawlor tựa vào ghế và theo dõi Harvath xử lý thông tin.
“Máu cừu ở đây có chứa đồng vị phóng xạ?”
Lawlor gật đầu.
“Không thể nào. Chính cháu theo dõi kẻ giết Bob.” Harvath suýt nữa thì thêm vào và cháu đã nhìn thấy ông ấy chết khi ông ấy nhận ra ông ấy không phát hiện ra tên khủng bố trả phòng.
Mặc dù Harvath nghi ngờ cỏ kẻ nào đó đã sống sót trong vụ việc anh làm với Mohammed bin Mohammed, đúng là anh không thể nào khẳng định rằng người đàn ông đó đã chết.
“Họ không tin đó là Mohammed,” Lawlor nói tiếp. “Từ những gì tôi có thể thu thập được cho thấy đây là một loại đồng vị phóng xạ hoàn toàn khác.”
“Chúng chủ ý trộn vào máu cừu và sơn lên cửa trước nhà cháu phải không?” Harvath hỏi.
Ông Lawlor lại gật đầu.
“Tại sao?”
“Ai đó đang gửi cho cháu một lời nhắn.”
“Rõ rồi, nhưng là ai? Nếu đó là một loại đồng vị phóng xạ, dù khác với loại sử dụng trên cơ thể Mohammed, khó có thể chỉ ra nó xuất phát từ đâu. Chúng ta sẽ bắt đầu từ đó.”
“Không dễ như vậy đâu,” ông Lawlor cảnh báo.
“Tại sao không? Tất cả là chương trình của Bộ Quốc phòng. Họ lưu giữ hồ sơ của bất kỳ ai. Hãy liên lạc với văn phòng Bộ Quốc phòng và cho ông ta biết rằng chúng ta cần tiếp cận.”
“Tôi đã thử rồi.”
“Và?” Harvath hỏi đầy vẻ sốt ruột.
“Không đi đến đâu cả.”
“Không ư? Hẳn là bác đùa cháu.”
Lawlor lắc đầu. “Rất tiếc là tôi không đùa.”
“Vậy chúng ta đến chỗ tổng thống. dù Bộ trưởng Bộ Quốc phòng không đồng ý nhưng nếu tổng thống Rutledge yêu cầu ông ta mở hồ sơ, tin cháu đi, ông ta sẽ phải mở.” Harvath đáp lời.
“Tôi đã nói chuyện với ngài tổng thống Rutl. Chẳng đi đến đâu cả.”
Harvath không thể tin vào tai mình nữa. “Cháu muốn tự mình đi gặp tổng thống.”
“Ông ấy biết cháu sẽ nói thế,” Lawlor an ủi. “Và ông ấy cảm thấy nợ cháu điều đó. Có một chiếc xe đang đợi chúng ta ở dưới kia.”
Danh sách chương