Connie Watson nhìn trừng trừng qua cánh cửa lưới. Bà ta là người to lớn, dềnh dàng, có đôi mắt luôn mang vẻ ngờ vực. Một bàn tay thô ráp vì lao động của bà nắm chặt chiếc khăn lau đĩa. Tất tần tật mọi thứ ở con người bà, từ vẻ mặt cho đến ngôn ngữ cơ thể, đều toát ra một vẻ là con người này đã không còn mong đợi điều tốt đẹp của cuộc sống từ rất lâu rồi.
“Ta nhớ cô chứ, Irene,” bà ta bảo. Đoạn phóng cái liếc nhanh gọn, khó chịu sang Luke. “Tôi cũng biết anh là ai nữa, anh Danner. Hai anh chị muốn gì đây?”
Chuyện này rồi sẽ chẳng dễ dàng gì đâu, Irene thầm nghĩ. Linh cảm của nàng sáng nay hóa ra lại đúng. Nếu nàng gọi điện đến trước thì Connie hẳn đã tìm ra cái cớ để không có mặt ở nhà.
“Cháu muốn hỏi bà vài câu về Pamela ạ,” nàng lên tiếng, cố giữ cho giọng mình hết mực bình tĩnh và dịu dàng. “Có thời chúng cháu từng là bạn, bà còn nhớ chứ?”
“Tất nhiên là nhớ rồi.” Bà Connie chùi tay vào khăn. Bà ta chẳng tiến thêm tí nào về phía cửa lưới. “Ta có nghe hai người đã tìm thấy Pamela đêm hôm nọ. Cũng có nghe hai người đốt rụi nhà ông Webb nữa.”
“Có kẻ khác đã châm lửa đốt căn nhà đó,” Luke xen vào. “Chúng tôi chỉ tình cờ có mặt gần đấy lúc đó thôi.”
“Mọi người trong thị trấn đâu có nói như thế,” Connie làu bàu.
“Là sự thật đấy ạ,” Irene thưa. “Lạy Chúa lòng lành, Connie ơi, bà thực sự nghĩ là cháu lại đi đốt nhà ư?”
“Nghe bảo là cô hành xử hơi kỳ lạ trong vụ Pamela chết. Có người bảo cho ta biết là cô mắc cái chứng mà người ta gọi là chứng ám ảnh không lành mạnh đối với chuyện này, đại loại thế.”
Luke nhìn thẳng vào bà ta xuyên qua cửa lưới. “Ai bảo bà thế đấy?” Connie giật nảy người khẽ thụt lùi một chút. Thế rồi bà ta với tay ra lập cập khóa chốt cánh cửa. “Quan trọng gì. Tin đồn truyền quanh thị trấn thôi mà.”
Irene cau mày nhìn Luke, thầm lệnh cho anh câm mồm. Chắc hẳn anh có biệt tài ra lệnh và dọa dẫm người khác, nhưng lúc này đây nàng lại đang cần sự hợp tác của Connie.
Luke nhướng mày và khẽ nhún vai, ra hiệu cho nàng biết là anh đã nhận được tín hiệu của nàng.
Irene quay sang Connie. “Ngay trước khi cô ấy qua đời, Pamela đã gửi cho cháu bức email bảo rằng cô ấy muốn gặp cháu tại Dunsley. Bà có biết cô ấy định nói với cháu điều gì không ạ?”
“Không.”
“Pamela có tỏ dấu hiệu lo lắng hay bực bội gì không?”
“Không.”
“Bà có nhìn thấy cô ấy vào ngày cô ấy chết không?”
“Không.”
Chuyện này không suôn sẻ rồi, Irene tự nhủ. Nàng có thể cảm nhận được Luke đang quan sát nàng, chờ đợi nàng thả cửa cho anh để anh có thể áp dụng kiểu hỏi cung kém lịch sự hơn của riêng anh. Nàng lật lại ký ức hòng tìm ra góc tiếp cận khác.
“Bà Connie này, cháu hiểu là bà cảm thấy bà nợ gia đình Webb lòng trung thành của mình, và cháu đồng ý như vậy. Nhưng bà cũng còn nợ gia đình cháu một điều mà, phải không nhỉ?” Connie nghiến chặt mảnh khăn trong nắm tay. Bà ta lùi lại một bước. “Có lẽ là ta có nợ nần với bố cô, nhưng ông ấy đã chết, cầu Chúa phù hộ linh hồn ông ấy.”
“Cái chết đâu có xóa bỏ mọi nợ nần đâu,” Irene lặng lẽ bảo. “Bố cháu đã mất rồi, nhưng cháu vẫn còn đây. Để tưởng nhớ đến ông, bà có thể làm ơn bảo cho cháu biết bất kể điều gì bà có thể nói về cái ngày cuối cùng của Pamela ở Dunsley được không?”
Gương mặt bà Connie chùng xuống. Bà ta thở hắt ra như mệt mỏi đầu hàng. “Phải hứa với ta là cô sẽ không kể cho ông ấy những gì ta kể với cô.”
“Ý bà là cảnh sát trưởng McPherson ấy à?” Luke hỏi.
Connie chớp mắt lia lịa, vẻ cảnh giác hẳn. “Cũng không được nói với cả anh ta nữa. Chắc chắn rồi anh ta sẽ đến thẳng...” Bất giác bà ta im bặt. “Mà thôi.” Bà ta quay lại Irene.
“Nghe này, ta thực sự không biết gì cả, và đấy hoàn toàn là sự thật.”
“Thì chỉ kể cho cháu nghe những gì bà biết thôi,” Irene thuyết phục.
“Thôi được, bốn ngày trước khi cô tìm thấy cô ấy chết, ta có nhận được cuộc gọi từ Pamela yêu cầu ta dọn dẹp nhà cửa sẵn sàng cho cô ấy. Chuyện này không có gì lạ cả. Cô ấy không thường xuyên sử dụng nơi này, nhưng hễ khi nào cần thì cô ấy sẽ gọi trước cho ta để đảm bảo tủ lạnh có thức ăn và chăn màn sạch sẽ và vân vân.”
“Bà có thấy cô ấy khi cô ấy về không ạ?”
Connie nhanh nhảu lắc đầu. “Không. Như ta đã nói rồi đấy, ta chỉ sửa soạn mọi thứ xong rồi về. Có người bảo họ thấy cô ấy lái xe qua thị trấn ngày hôm sau. Hai ngày sau thì cô ấy chết. Ta chỉ biết có thế.” Irene mỉm cười theo kiểu mà nàng hy vọng là một cách trấn an. “Vậy cô ấy có bảo bà trữ thức ăn cho hơn một người không ạ?” Connie cau mày. “Không.”
“Nghĩa là cô ấy không mong có người khác về cùng mình à?”
Connie lắc đầu. “Ta không nghĩ thế đâu. Nếu định chiêu đãi đám bạn thành phố xa hoa của mình thì hẳn cô ấy đã bảo ta trữ sẵn mấy món nhâm nhi với lại phô mai và rất nhiều bia rượu rồi.”
Irene sững người. “Cô ấy không nhờ bà mua tí rượu mạnh nào ư?”
“Lần này thì không.”
Luke chống một tay lên tường nhà. “Có một bình rượu rỗng và một ly martini trên bàn khi chúng tôi tìm thấy cô ấy.”
Connie phẩy tay mơ hồ. “Ta có nghe đến chuyện này. Không biết cô ấy lấy chai rượu đâu ra. Thường thì cô ấy luôn nhờ ta mua hộ, dĩ nhiên là trừ rượu vang ra.”
“Rượu vang ư?” Luke thận trọng lặp lại.
“Cô ấy rất kén rượu vang. Khi nào cũng tự mình mang theo. Nhưng với loại nặng đô thì cô ấy có thỏa thuận trước với tay Joe ở dưới siêu thị Dunsley ấy. Hắn ta biết Pamela thích loại gì và luôn trữ sẵn cho cô ta.” Connie nhún vai. “Ta cho là hẳn lần này cô ấy đã mua martini từ thành phố đem về đây thôi.”
“Rượu mạnh có thể cất lâu lắm mà,” Irene nói. “Chắn hẳn Pamela còn giữ vài chai trong nhà từ lần về thị trấn trước.”
“Không đâu,” Connie quả quyết. “Cô ấy không bao giờ để lại rượu bia trong nhà cả. Mọi người vùng này đều biết thế. Cô ấy luôn bảo làm thế chẳng khác nào lời mời để ngỏ cho mọi đứa choai choai quanh hồ này đột nhập vào nhà để chôm chỉa. Pamela bảo cô ấy không muốn chịu trách nhiệm cho việc mấy đứa trẻ trong vùng say xỉn rồi chạy xe chệch khỏi đường Lakefront mà đâm xuống hồ đâu. Bảo rằng thế thì sẽ không hay cho hình tượng của ngài thượng nghị sĩ.”
“Bà mua bao nhiêu thức ăn cho cô ấy thế ạ?” Irene hỏi. “Gì chứ?” Connie vặn vẹo chiếc khăn lau đĩa bằng cả hai tay.
“Chắc là đủ dùng cho vài ngày chứ ạ? Nghỉ cuối tuần dài ngày ấy mà?”
“À, thức ăn ấy hả.” Nắm tay bà Connie đang vặn chiếc khăn hơi nới ra. “Giờ nghĩ lại mới thấy chuyện đó hơi lạ thật. Khi gọi cho ta cô ấy bảo mình cần có sữa, ngũ cốc, rau trộn xa lát và đại loại thế đủ dùng cho một tuần”
“Thế thì có gì lạ cơ?”
“Thường thì cô ấy chỉ về nghỉ cuối tuần thôi, nhiều nhất là ba ngày. Chẳng thể nhớ được lần cuối cùng cô ấy định ở lại suốt cả tuần là khi nào nữa. Mà lại là ở một mình thôi nhé. Hễ khi nào ló mặt về đây là y như rằng cô ấy lại có một anh theo cùng.”
“Khi nào cũng thế à?” Irene cẩn thận hỏi lại.
Connie bĩu môi. “Cô còn nhớ Pamela như thế nào hồi cỡ tuổi teen chứ gì, cô ấy khi nào cũng có một đám con trai bu quanh mình như là bầy ong vo ve quanh hũ mật ấy?”
“Vâng ạ.”
“À há, có những chuyện không bao giờ thay đổi. Khi nào cũng có một thằng đàn ông loanh quanh lân cận.”
Irene nghĩ đến căn phòng ngủ hai màu trắng-hồng. “Thế họ ngủ ở đâu?”
Connie trông ngạc nhiên hết cỡ. “Thì ở nhà chứ còn ở đâu nữa. Họ còn ngủ ở chỗ nào khác cơ chứ?”
“Ý cháu là, phòng ngủ nào trong nhà cơ?”
“Pamela luôn luôn sử dụng căn phòng ngủ chính với lý do phòng ấy có hàng hiên và nhìn thấy được toàn cảnh hồ. Đám khách của cô ấy ngủ trong mấy phòng ngủ phụ. Có một phòng ở lầu trên và một ở lầu dưới.”
“Cô ấy không để khách nào ngủ trong phòng ngủ cũ của cô ấy hết à? Căn phòng Pamela dùng hồi thiếu niên ấy?”
“Ồ không đâu,” Connie đáp. “Cô ấy không bao giờ cho ai sử dụng căn phòng đó cả.”
“Có khi nào cô ấy giải thích vì sao không ạ?” Irene hỏi.
“Không.” Connie ngập ngừng. “Nói trắng ra thì Pamela đối xử với căn phòng đó hơi hơi kỳ lạ. Luôn nói rõ là mình muốn giữ cho căn phòng ấy chính xác như trước nay vẫn thế. Thậm chí ta còn không được phép di chuyển bàn ghế trong ấy nữa kia. Ta đoán là Pamela có nhiều tình cảm với căn phòng ấy hay sao đó.”
“Cảm ơn bà, Connie ạ.” Irene bước lui. “Cháu rất biết ơn vì bà đã kiên nhẫn như vậy. Bà thật tử tế đã trả lời các câu hỏi của cháu.”
“Cô chỉ muốn có thế thôi sao?” Connie hỏi lại, vẻ mặt thoáng chút rạng ngời.
“Vâng ạ.”
“Vậy là chúng ta huề rồi phải không, ta và gia đình cô ấy?”
“Vâng ạ,” Irene đáp. “Đã thanh toán sòng phẳng.”
“Ước gì ta có thể trả nợ hết cho mọi người bằng cách dễ dàng như thế này,” Connie lẩm bẩm. Bà ta dợm đóng cửa lại. Nhưng giây phút cuối cùng, bà khựng lại, hé nhìn ra Irene qua khe cửa. Giọng bà trầm xuống. “Này cháu, nhớ cẩn thận đấy nghe không? Có những người không muốn cháu hỏi han lung tung về Pamela đâu đấy.”
“Liệu bà có vui lòng nói rõ hơn một chút không ạ?” Irene hỏi lại.
“Ta luôn mến cháu, Irene à, và ta rất tiếc khi nghe về cái chứng rối loạn hậu chấn thương mà mọi người bảo cháu mắc phải ấy. Vả lại, ta thực lòng biết ơn những gì cha cháu làm cho con trai ta. Bao năm nay Wayne đã làm việc ổn định. Đã lập gia đình vài năm trước và giờ đây đang có một gia đình nhỏ rất dễ thương.”
“Mừng cho bà, bà Connie ạ.”
“Như ta đã nói, ta rất biết ơn. Nhưng ta sẽ thực lòng hàm ơn nếu cháu đừng chóng quay lại đây thêm lần nào nữa nhé.”
Cánh cửa dứt khoát nặng nề đóng sập lại. Irene sánh bước bên Luke quay trở lại chiếc SUV. Chẳng ai nói năng gì cho đến khi lên xe.
Irene lôi cuốn sổ tay ra khỏi túi xách. “Được rồi, xem ta biết được gì nào. Pamela đã yêu cầu trữ đủ thức ăn cho một tuần và không cho mua tí rượu mạnh nào, nhưng cô ấy lại được cho là đã chết vì sử dụng martini và uống thuốc quá liều.”
Luke gài số cho xe chạy trên con đường hẹp dẫn ra khỏi căn nhà nhỏ bé của Connie.
“Lượng thực phẩm gợi ý cho ta biết rằng Pamela không nghĩ đến chuyện tự kết liễu đời mình,” Luke tán thành. “Nhưng lại không có nghĩa là cô ấy không chết vì vô tình sử dụng thuốc quá liều.”
“Tôi biết mà.” Irene gõ gõ đầu bút xuống tập sổ. “Chai rượu mạnh mới làm tôi thắc mắc nhất đây. Đúng là có thể lần này Pamela đã tự mang theo mình, nhưng nếu cô ấy luôn có thói quen nhờ Connie mua trữ sẵn cùng với những nhu yếu phẩm khác, thì cớ gì lại phải thay đổi thói quen từ hồi đến giờ vậy?”
“Hỏi hay lắm,” Luke thừa nhận. “Còn tôi thì đang mải nghĩ đến người đàn ông cơ.”
“Người đàn ông nào?”
“Connie bảo là hễ nói đến Pamela thì khi nào cũng có một người đàn ông đính kèm.”
“Nhưng lần này thì không,” Irene chầm chậm nói tiếp.
“Ít nhất là Connie không biết có người nào.”
Irene nghiền ngẫm khía cạnh này. “Ngày trước, Pamela luôn coi đàn ông như trang sức phụ kiện. Cô ấy luôn có sẵn một hai anh chàng túc trực để mang theo bất cứ khi nào cô ấy muốn đi chơi hay tiệc tùng gì. Nếu Connie nói đúng, rằng chuyện này chẳng có gì thay đổi ấy, thì nghĩa là khá chắc ăn vào thời điểm chết Pamela đã có sẵn một anh chàng ở đâu đó gần đấy.”
“Nếu chúng ta tìm ra tay này, có thể anh ta biết được cô ấy nghĩ gì trong những ngày cuối đời mình.”
Irene mỉm cười. “Tôi thích cách anh suy nghĩ đấy, anh Danner ạ.”
“Xì, cảm ơn nhé. Tôi luôn muốn được người ta ngưỡng mộ trí óc của mình mà.” Luke liếc qua nàng. “Bố cô đã làm gì cho con trai của bà Connie thế? Irene đưa mắt dõi theo ánh nắng và bóng râm nhảy nhót trên mặt hồ. “Wayne Watson vướng phải rắc rối với pháp luật sau khi tốt nghiệp trung học. Rốt cuộc bị ngồi tù. Khi ra tù chẳng ai quanh vùng hồ này muốn mướn cậu ta. Bố tôi đã thuyết phục một nhà thầu ở Kirbyville nhận cậu ta vào. Nghe có vẻ như chuyện này đã xuôi chèo mát mái.”
“Ta nhớ cô chứ, Irene,” bà ta bảo. Đoạn phóng cái liếc nhanh gọn, khó chịu sang Luke. “Tôi cũng biết anh là ai nữa, anh Danner. Hai anh chị muốn gì đây?”
Chuyện này rồi sẽ chẳng dễ dàng gì đâu, Irene thầm nghĩ. Linh cảm của nàng sáng nay hóa ra lại đúng. Nếu nàng gọi điện đến trước thì Connie hẳn đã tìm ra cái cớ để không có mặt ở nhà.
“Cháu muốn hỏi bà vài câu về Pamela ạ,” nàng lên tiếng, cố giữ cho giọng mình hết mực bình tĩnh và dịu dàng. “Có thời chúng cháu từng là bạn, bà còn nhớ chứ?”
“Tất nhiên là nhớ rồi.” Bà Connie chùi tay vào khăn. Bà ta chẳng tiến thêm tí nào về phía cửa lưới. “Ta có nghe hai người đã tìm thấy Pamela đêm hôm nọ. Cũng có nghe hai người đốt rụi nhà ông Webb nữa.”
“Có kẻ khác đã châm lửa đốt căn nhà đó,” Luke xen vào. “Chúng tôi chỉ tình cờ có mặt gần đấy lúc đó thôi.”
“Mọi người trong thị trấn đâu có nói như thế,” Connie làu bàu.
“Là sự thật đấy ạ,” Irene thưa. “Lạy Chúa lòng lành, Connie ơi, bà thực sự nghĩ là cháu lại đi đốt nhà ư?”
“Nghe bảo là cô hành xử hơi kỳ lạ trong vụ Pamela chết. Có người bảo cho ta biết là cô mắc cái chứng mà người ta gọi là chứng ám ảnh không lành mạnh đối với chuyện này, đại loại thế.”
Luke nhìn thẳng vào bà ta xuyên qua cửa lưới. “Ai bảo bà thế đấy?” Connie giật nảy người khẽ thụt lùi một chút. Thế rồi bà ta với tay ra lập cập khóa chốt cánh cửa. “Quan trọng gì. Tin đồn truyền quanh thị trấn thôi mà.”
Irene cau mày nhìn Luke, thầm lệnh cho anh câm mồm. Chắc hẳn anh có biệt tài ra lệnh và dọa dẫm người khác, nhưng lúc này đây nàng lại đang cần sự hợp tác của Connie.
Luke nhướng mày và khẽ nhún vai, ra hiệu cho nàng biết là anh đã nhận được tín hiệu của nàng.
Irene quay sang Connie. “Ngay trước khi cô ấy qua đời, Pamela đã gửi cho cháu bức email bảo rằng cô ấy muốn gặp cháu tại Dunsley. Bà có biết cô ấy định nói với cháu điều gì không ạ?”
“Không.”
“Pamela có tỏ dấu hiệu lo lắng hay bực bội gì không?”
“Không.”
“Bà có nhìn thấy cô ấy vào ngày cô ấy chết không?”
“Không.”
Chuyện này không suôn sẻ rồi, Irene tự nhủ. Nàng có thể cảm nhận được Luke đang quan sát nàng, chờ đợi nàng thả cửa cho anh để anh có thể áp dụng kiểu hỏi cung kém lịch sự hơn của riêng anh. Nàng lật lại ký ức hòng tìm ra góc tiếp cận khác.
“Bà Connie này, cháu hiểu là bà cảm thấy bà nợ gia đình Webb lòng trung thành của mình, và cháu đồng ý như vậy. Nhưng bà cũng còn nợ gia đình cháu một điều mà, phải không nhỉ?” Connie nghiến chặt mảnh khăn trong nắm tay. Bà ta lùi lại một bước. “Có lẽ là ta có nợ nần với bố cô, nhưng ông ấy đã chết, cầu Chúa phù hộ linh hồn ông ấy.”
“Cái chết đâu có xóa bỏ mọi nợ nần đâu,” Irene lặng lẽ bảo. “Bố cháu đã mất rồi, nhưng cháu vẫn còn đây. Để tưởng nhớ đến ông, bà có thể làm ơn bảo cho cháu biết bất kể điều gì bà có thể nói về cái ngày cuối cùng của Pamela ở Dunsley được không?”
Gương mặt bà Connie chùng xuống. Bà ta thở hắt ra như mệt mỏi đầu hàng. “Phải hứa với ta là cô sẽ không kể cho ông ấy những gì ta kể với cô.”
“Ý bà là cảnh sát trưởng McPherson ấy à?” Luke hỏi.
Connie chớp mắt lia lịa, vẻ cảnh giác hẳn. “Cũng không được nói với cả anh ta nữa. Chắc chắn rồi anh ta sẽ đến thẳng...” Bất giác bà ta im bặt. “Mà thôi.” Bà ta quay lại Irene.
“Nghe này, ta thực sự không biết gì cả, và đấy hoàn toàn là sự thật.”
“Thì chỉ kể cho cháu nghe những gì bà biết thôi,” Irene thuyết phục.
“Thôi được, bốn ngày trước khi cô tìm thấy cô ấy chết, ta có nhận được cuộc gọi từ Pamela yêu cầu ta dọn dẹp nhà cửa sẵn sàng cho cô ấy. Chuyện này không có gì lạ cả. Cô ấy không thường xuyên sử dụng nơi này, nhưng hễ khi nào cần thì cô ấy sẽ gọi trước cho ta để đảm bảo tủ lạnh có thức ăn và chăn màn sạch sẽ và vân vân.”
“Bà có thấy cô ấy khi cô ấy về không ạ?”
Connie nhanh nhảu lắc đầu. “Không. Như ta đã nói rồi đấy, ta chỉ sửa soạn mọi thứ xong rồi về. Có người bảo họ thấy cô ấy lái xe qua thị trấn ngày hôm sau. Hai ngày sau thì cô ấy chết. Ta chỉ biết có thế.” Irene mỉm cười theo kiểu mà nàng hy vọng là một cách trấn an. “Vậy cô ấy có bảo bà trữ thức ăn cho hơn một người không ạ?” Connie cau mày. “Không.”
“Nghĩa là cô ấy không mong có người khác về cùng mình à?”
Connie lắc đầu. “Ta không nghĩ thế đâu. Nếu định chiêu đãi đám bạn thành phố xa hoa của mình thì hẳn cô ấy đã bảo ta trữ sẵn mấy món nhâm nhi với lại phô mai và rất nhiều bia rượu rồi.”
Irene sững người. “Cô ấy không nhờ bà mua tí rượu mạnh nào ư?”
“Lần này thì không.”
Luke chống một tay lên tường nhà. “Có một bình rượu rỗng và một ly martini trên bàn khi chúng tôi tìm thấy cô ấy.”
Connie phẩy tay mơ hồ. “Ta có nghe đến chuyện này. Không biết cô ấy lấy chai rượu đâu ra. Thường thì cô ấy luôn nhờ ta mua hộ, dĩ nhiên là trừ rượu vang ra.”
“Rượu vang ư?” Luke thận trọng lặp lại.
“Cô ấy rất kén rượu vang. Khi nào cũng tự mình mang theo. Nhưng với loại nặng đô thì cô ấy có thỏa thuận trước với tay Joe ở dưới siêu thị Dunsley ấy. Hắn ta biết Pamela thích loại gì và luôn trữ sẵn cho cô ta.” Connie nhún vai. “Ta cho là hẳn lần này cô ấy đã mua martini từ thành phố đem về đây thôi.”
“Rượu mạnh có thể cất lâu lắm mà,” Irene nói. “Chắn hẳn Pamela còn giữ vài chai trong nhà từ lần về thị trấn trước.”
“Không đâu,” Connie quả quyết. “Cô ấy không bao giờ để lại rượu bia trong nhà cả. Mọi người vùng này đều biết thế. Cô ấy luôn bảo làm thế chẳng khác nào lời mời để ngỏ cho mọi đứa choai choai quanh hồ này đột nhập vào nhà để chôm chỉa. Pamela bảo cô ấy không muốn chịu trách nhiệm cho việc mấy đứa trẻ trong vùng say xỉn rồi chạy xe chệch khỏi đường Lakefront mà đâm xuống hồ đâu. Bảo rằng thế thì sẽ không hay cho hình tượng của ngài thượng nghị sĩ.”
“Bà mua bao nhiêu thức ăn cho cô ấy thế ạ?” Irene hỏi. “Gì chứ?” Connie vặn vẹo chiếc khăn lau đĩa bằng cả hai tay.
“Chắc là đủ dùng cho vài ngày chứ ạ? Nghỉ cuối tuần dài ngày ấy mà?”
“À, thức ăn ấy hả.” Nắm tay bà Connie đang vặn chiếc khăn hơi nới ra. “Giờ nghĩ lại mới thấy chuyện đó hơi lạ thật. Khi gọi cho ta cô ấy bảo mình cần có sữa, ngũ cốc, rau trộn xa lát và đại loại thế đủ dùng cho một tuần”
“Thế thì có gì lạ cơ?”
“Thường thì cô ấy chỉ về nghỉ cuối tuần thôi, nhiều nhất là ba ngày. Chẳng thể nhớ được lần cuối cùng cô ấy định ở lại suốt cả tuần là khi nào nữa. Mà lại là ở một mình thôi nhé. Hễ khi nào ló mặt về đây là y như rằng cô ấy lại có một anh theo cùng.”
“Khi nào cũng thế à?” Irene cẩn thận hỏi lại.
Connie bĩu môi. “Cô còn nhớ Pamela như thế nào hồi cỡ tuổi teen chứ gì, cô ấy khi nào cũng có một đám con trai bu quanh mình như là bầy ong vo ve quanh hũ mật ấy?”
“Vâng ạ.”
“À há, có những chuyện không bao giờ thay đổi. Khi nào cũng có một thằng đàn ông loanh quanh lân cận.”
Irene nghĩ đến căn phòng ngủ hai màu trắng-hồng. “Thế họ ngủ ở đâu?”
Connie trông ngạc nhiên hết cỡ. “Thì ở nhà chứ còn ở đâu nữa. Họ còn ngủ ở chỗ nào khác cơ chứ?”
“Ý cháu là, phòng ngủ nào trong nhà cơ?”
“Pamela luôn luôn sử dụng căn phòng ngủ chính với lý do phòng ấy có hàng hiên và nhìn thấy được toàn cảnh hồ. Đám khách của cô ấy ngủ trong mấy phòng ngủ phụ. Có một phòng ở lầu trên và một ở lầu dưới.”
“Cô ấy không để khách nào ngủ trong phòng ngủ cũ của cô ấy hết à? Căn phòng Pamela dùng hồi thiếu niên ấy?”
“Ồ không đâu,” Connie đáp. “Cô ấy không bao giờ cho ai sử dụng căn phòng đó cả.”
“Có khi nào cô ấy giải thích vì sao không ạ?” Irene hỏi.
“Không.” Connie ngập ngừng. “Nói trắng ra thì Pamela đối xử với căn phòng đó hơi hơi kỳ lạ. Luôn nói rõ là mình muốn giữ cho căn phòng ấy chính xác như trước nay vẫn thế. Thậm chí ta còn không được phép di chuyển bàn ghế trong ấy nữa kia. Ta đoán là Pamela có nhiều tình cảm với căn phòng ấy hay sao đó.”
“Cảm ơn bà, Connie ạ.” Irene bước lui. “Cháu rất biết ơn vì bà đã kiên nhẫn như vậy. Bà thật tử tế đã trả lời các câu hỏi của cháu.”
“Cô chỉ muốn có thế thôi sao?” Connie hỏi lại, vẻ mặt thoáng chút rạng ngời.
“Vâng ạ.”
“Vậy là chúng ta huề rồi phải không, ta và gia đình cô ấy?”
“Vâng ạ,” Irene đáp. “Đã thanh toán sòng phẳng.”
“Ước gì ta có thể trả nợ hết cho mọi người bằng cách dễ dàng như thế này,” Connie lẩm bẩm. Bà ta dợm đóng cửa lại. Nhưng giây phút cuối cùng, bà khựng lại, hé nhìn ra Irene qua khe cửa. Giọng bà trầm xuống. “Này cháu, nhớ cẩn thận đấy nghe không? Có những người không muốn cháu hỏi han lung tung về Pamela đâu đấy.”
“Liệu bà có vui lòng nói rõ hơn một chút không ạ?” Irene hỏi lại.
“Ta luôn mến cháu, Irene à, và ta rất tiếc khi nghe về cái chứng rối loạn hậu chấn thương mà mọi người bảo cháu mắc phải ấy. Vả lại, ta thực lòng biết ơn những gì cha cháu làm cho con trai ta. Bao năm nay Wayne đã làm việc ổn định. Đã lập gia đình vài năm trước và giờ đây đang có một gia đình nhỏ rất dễ thương.”
“Mừng cho bà, bà Connie ạ.”
“Như ta đã nói, ta rất biết ơn. Nhưng ta sẽ thực lòng hàm ơn nếu cháu đừng chóng quay lại đây thêm lần nào nữa nhé.”
Cánh cửa dứt khoát nặng nề đóng sập lại. Irene sánh bước bên Luke quay trở lại chiếc SUV. Chẳng ai nói năng gì cho đến khi lên xe.
Irene lôi cuốn sổ tay ra khỏi túi xách. “Được rồi, xem ta biết được gì nào. Pamela đã yêu cầu trữ đủ thức ăn cho một tuần và không cho mua tí rượu mạnh nào, nhưng cô ấy lại được cho là đã chết vì sử dụng martini và uống thuốc quá liều.”
Luke gài số cho xe chạy trên con đường hẹp dẫn ra khỏi căn nhà nhỏ bé của Connie.
“Lượng thực phẩm gợi ý cho ta biết rằng Pamela không nghĩ đến chuyện tự kết liễu đời mình,” Luke tán thành. “Nhưng lại không có nghĩa là cô ấy không chết vì vô tình sử dụng thuốc quá liều.”
“Tôi biết mà.” Irene gõ gõ đầu bút xuống tập sổ. “Chai rượu mạnh mới làm tôi thắc mắc nhất đây. Đúng là có thể lần này Pamela đã tự mang theo mình, nhưng nếu cô ấy luôn có thói quen nhờ Connie mua trữ sẵn cùng với những nhu yếu phẩm khác, thì cớ gì lại phải thay đổi thói quen từ hồi đến giờ vậy?”
“Hỏi hay lắm,” Luke thừa nhận. “Còn tôi thì đang mải nghĩ đến người đàn ông cơ.”
“Người đàn ông nào?”
“Connie bảo là hễ nói đến Pamela thì khi nào cũng có một người đàn ông đính kèm.”
“Nhưng lần này thì không,” Irene chầm chậm nói tiếp.
“Ít nhất là Connie không biết có người nào.”
Irene nghiền ngẫm khía cạnh này. “Ngày trước, Pamela luôn coi đàn ông như trang sức phụ kiện. Cô ấy luôn có sẵn một hai anh chàng túc trực để mang theo bất cứ khi nào cô ấy muốn đi chơi hay tiệc tùng gì. Nếu Connie nói đúng, rằng chuyện này chẳng có gì thay đổi ấy, thì nghĩa là khá chắc ăn vào thời điểm chết Pamela đã có sẵn một anh chàng ở đâu đó gần đấy.”
“Nếu chúng ta tìm ra tay này, có thể anh ta biết được cô ấy nghĩ gì trong những ngày cuối đời mình.”
Irene mỉm cười. “Tôi thích cách anh suy nghĩ đấy, anh Danner ạ.”
“Xì, cảm ơn nhé. Tôi luôn muốn được người ta ngưỡng mộ trí óc của mình mà.” Luke liếc qua nàng. “Bố cô đã làm gì cho con trai của bà Connie thế? Irene đưa mắt dõi theo ánh nắng và bóng râm nhảy nhót trên mặt hồ. “Wayne Watson vướng phải rắc rối với pháp luật sau khi tốt nghiệp trung học. Rốt cuộc bị ngồi tù. Khi ra tù chẳng ai quanh vùng hồ này muốn mướn cậu ta. Bố tôi đã thuyết phục một nhà thầu ở Kirbyville nhận cậu ta vào. Nghe có vẻ như chuyện này đã xuôi chèo mát mái.”
Danh sách chương