Tuppence nhấp nháy mắt. Quang cảnh dường như hơi lờ mờ. Cô cố gắng nhấc đầu khỏi gối nhưng lại nhăn mặt khi sự đau đớn xuyên qua đầu, và để rơi đầu xuống gối lần nữa. Cô khép mắt. Lập tức cô mở mắt ra và nhấp nháy mắt lần nữa.
Với cảm giác đau đớn cô nhận ra những vật xung quanh.” Mình đang ở trong một phòng bệnh,” Tuppence nghĩ. Thoả mãn với tình trạng tinh thần chỉ tiến triển đến mức ấy, cô không cố gắng dùng trí óc suy luận nữa. Cô ở trong một phòng bệnh và đầu cô đau. Tại sao lại đau, tại sao cô ở trong một phòng bệnh, cô không hoàn toàn chắc. ‘tai nạn?’ Tuppence nghĩ.
Nhiều y tá đi lại xung quanh giường. Điều này dường như khá bình thường. Cô khép mắt và cố thử một ít suy nghĩ thận trọng. Một cảnh lờ mờ về một bóng người già nua trong bộ áo chùng thâm, tình cờ đi qua bức màn trí nhớ. ‘Cha?’ Tuppence nghi ngờ nói thầm. ‘Có phải cha không?’ Cô không thể thật sự nhớ. Cô giả thiết vậy thôi.
“ Nhưng ta làm gì để bị ốm trong một bệnh viện chứ?” Tuppence nghĩ. “ta muốn nói, ta điều dưỡng trong một bệnh viện, vậy ta phải mặc đồng phục. Đồng phục V.A.D. Trời ơi,” Tuppence nói.
Ngay sau đó một y tá xuất hiện gần giường cô.
Bây giờ cảm thấy khoẻ hơn chứ? Y tá nói với giọng vui vẻ giả tạo. Tốt rồi, phải không? Tuppence không hoàn tòan chắc điều đó là Tốt. Người y tá nói cái gì về một tách trà.
- Dường như mình là một bịnh nhân, Tuppence nói hơi bất mãn về chính mình. Cô nằm đó bất động, cố phục hồi lại trong trí nhớ nhiều tư tưởng và từ khác nhau.
- Lính, V.A.D. Tất nhiên. Mình là một V.A.D.
Người y tá mang trà vào trong thứ cốc cho ăn và giúp cô trong khi cô nhấp trà. Sự đau đớn xuyên qua đầu lần nữa. ‘Một V.A.D. đó là những gì ta là’ Tuppence nói lớn.
Người y tá nhìn cô không hiểu.
- Đầu tôi đau, Tuppence nói, thêm vào một phát biểu sự kiện.
- Sẽ tốt ngay thôi mà.
Cô lấy lại tách cho ăn, thuật lại với một nữ y tá trưởng khi bà đi ngang. ‘Số 14 tỉnh rồi. Cô ấy hơi rệu rã, tôi nghĩ thế.
- Cô ấy nói gì thế?
- Nói cô là một V.I.P, người y tá nói.
Nữ y tá trưởng khịt mũi cái đó là điều cô vẫn cảm thấy về những bệnh nhân không quan trọng họ tự cho mình là V.I.P.
Chúng ta nên xem xét về cái đó, nữ y tá trưởng nói. Mau lên, y tá, đừng suốt ngày với cái tách cho ăn ấy nữa.
Tuppence vẫn còn ngủ gà gật trên gối. Cô vẫn chưa vượt qua tình trạng những ý tướng vụt nhanh qua trí nhớ như một đám rước vô tổ chức.
Có một người nào đó phải ở đây chứ, cô cảm thấy thế, một người nào đó cô hoàn toàn biết rõ. Có một cái gì rất xa lạ về bệnh viện này. Không phải bệnh viện cô nhớ. Không phải bệnh viện cô làm điều dưỡng.” Tất cả đều là lính. Khoa giải phẫu bệnh, mình làm bên dãy A và dãy B. Cô mở mắt và nhìn quanh. Cô tự quyết đó không phải là một bệnh viện trước kia cô đã thấy và càng không liên hệ chi tới việc điều dưỡng những trường hợp giải phẫu cả, quân đội hay cái gì khác.
- Mình tự hỏi đây là đâu. Chỗ nào? Cô cố gắng nghĩ cái tên một chỗ nào đó. Chỉ có những chỗ cô có thể nghĩ ra là London và Southampton.
Người nữ y tá trưởng tái xuất hiện bên giường.
- Cảm thấy khoẻ hơn chứ, tôi hi vọng thế.
- Tôi khỏe rồi, Tuppence đáp. Có chuyện gì với tôi thế?
- Cô bị thương ở đầu. Tôi hi vọng cô thấy bớt đau hơn, phải không?
- Vẫn còn đau. Tôi ở đâu vậy?
- Bệnh viện Hoàng gia Basing. Nó không có nghĩa gì với cô cả.
- Một vị cha cố. Cô nói .
- Xin lỗi?
- Chúng tôi không thể viết tên cô trên tờ giấy ăn kiêng được, nữa y ta trửơng nói.
Cô cầm cây bút may Biro sẵn sàng và nhìn Tuppence dò hỏi.
- Tên tôi?
- Phải, cô ta đáp. Để ghi lại, cô nói thêm tràn đầy hi vọng.
Tuppence im lặng, suy nghĩ. Tên cô. Tên cô là gì?” điên làm sao, dường như mình đã quên nó rồi. Tuy nhiên mình phải có một cái tên. Thình lình một cảm giác nhẹ nhõm yếu ớt chợt đến. Khuôn mặt của vị cha cố già bất ngờ bùng sáng lên qua trí nhớ và cô hạ quyết định.” Tất nhiên rồi, Tuppence.”
- P-r-u-e-n-c-e.
- Phải, Prudence.
- Đó là tên thánh của cô. Còn họ?
- Cowley. C-o-w-l-e-y.
- Rất vui là đã nói thật. Cô ta nói, và đi ra với vẻ của một người mà bản ghi của họ không còn làm cho cô lo lắng nữa.
Tuppence cảm thấy mơ hồ vui. Pruden Cowley. Pruden Cowley trong V.A.D. và cha cô là một cha cố - Tại một giáo xứ thời chiến tranh và..”không thể tin được,” ‘mình dường như làm chuyện này hoàn toàn sai lầm. Dường như với mình tất cả đã xảy ra cách đây lâu lắm rồi.’ Cô thì thầm.. ‘Có phải là đứa con tội nghiệp của cô không?’ cô tự hỏi. Có phải cô vừa nói điều đó hay một kẻ nào khác đã nói?
Nữ y tá trưởng trở vào lần nữa.
- Địa chỉ của cô, cô nói, Cô - Cô Cowley, hay bà Cowley? Có phải cô hỏi về một đứa trẻ không?
- Có phải đứa con tội nghiệp của cô không? có một người nào đó nói với tôi hay tôi đang nói với họ?
- Tôi nghĩ bây giờ cô nên ngủ một chút nếu tôi là cô, cô thân mến ạ.
- Cô đi ra và đem thông tin cô đã kiếm được đến chỗ thích hợp.
- Dường như cô ấy đã hồi sức, thưa bác sĩ. Cô nhận xét, và cô nói tên cô là Prudence Cowley. Nhưng hình cô không nhớ tên cô. Cô nói cái gì đó về một đứa trẻ.
- Tốt, bác sĩ nói, với vẻ thờ ơ thường lệ. Chúng ta sẽ cho cô hai mươi bốn giờ. Cô ta đang hồi phục tốt từ sự chấn thương sọ não.
Tommy dò dẫm với chìa khoá cửa rập ngoài. Trước khi anh có thể xử dụng nó cửa mở ra và Abert đứng trong lề cửa mở rộng.
- Cô đã về chưa?
Albert chậm chạp lắc đầu.
- Không lời nào từ cô, không thư điện thoại, không thư viết - không điện tín?
- Tuyệt đối không có gì để tôi kể với ông cả, thưa ông. Và không có gì từ bất cứ ai khác. Chúng đang trốn tránh - nhưng chúng bắt cô. Đó là những gì tôi nghĩ. Chúng đã bắt cô.
- Mày nói cái qủy gì thế - chúng bắt cô? Tommy hỏi. Những chuyện mày đọc. Ai bắt cô?
- Ông hiểu điều tôi nói mà. Bọn băng nhóm.
- Băng nhóm nào chứ?
- Một trong những băng nhóm có thể múa dao. Hay một tổ chức quốc tế.
- Ngừng nói điều rác rưởi đó lại. Mày biết tao nghĩ gì không hả?
Albert nhìn ông dò hỏi.
- Tao nghĩ thật thiếu thận trọng việc cô mày không hề gởi một lời hay cái gì đó cho chúng ta.
- Ô, con hiểu điều ông nói. Con cho rằng ông Có Thể nói thế. Nếu nói ra làm ông hạnh phúc. Hắn thêm vào khá bất hạnh. Hắn lấy cái gói từ tay Tommy. Con biết ông lại mang cái này về.
- Phải, tao mang bức tranh vấy máu ấy về, Tommy đáp. Không ích lợi gì.
- Ông đã không biết thêm cái gì từ đó sao?
- Không hoàn toàn như thế. Tao Có biết đôi điều nhưng như là cái tao biết có ích với tao không thì tao chịu. Dr. Murray không gọi điện sao, tao tưởng thế, hay cô Packard từ nhà Điều Dưỡng Sunny Ridge? Không có tin gì à?
- Không ai gọi điện trừ ông chủ cửa hàng thực phẩm bảo ông có bắp cà tím. Ông biết cô chủ thích cà tím. Ông luôn luôn cho cô hay. Nhưng tôi bảo ông cô bây giờ không có thể ăn được. Anh ta nói thêm. Tôi có làm con gà ăn tối.
- Thật kì là mày không bao giờ có thể nghĩ ra cái gì khác ngoài những con gà. Tommy nói vẻ cau có.
- Lần này đó là cái họ gọi Gà Mới Nở. Đầy xương.
- Ừa.
Điện thoại reo vang. Trong nháy mắt Tommy nhảy ra khỏi chỗ ngồi và nhào đến chỗ để máy.
- Alô... Alô?
Một giọng nói vang yếu ớt từ đàng xa. Ông Thomas Beresfold? Ông có thể nhận một cú gọi cá nhân từ Invergashly?
- Vâng.
- Xin vui lòng giữ máy.
Tommy đợi. Sự kích động của ông bây giờ dịu xuống. Ông phải đợi một lúc. Rồi một giọng nói ông biết, rõ ràng và kiên quyết, vang lên. Tiếng nói của con gái ông.
- Hello, có phải cha đó không? Cha?
- Deborah!
- Vâng. Tại sao giọng cha như đứt hơi thế, cha vừa mới chạy sao?
Những đứa con gái, Tommy nghĩ, luôn luôn bình phẩm.
- Ở tuổi cha thì hơi khò khè một chút. Con khoẻ không, Deborah?
- Ô, con ổn thôi, nhìn đây, Cha, con thấy một cái gì đó trong báo. Có lẽ cha cũng thấy nữa. Con ngạc nhiên về nó. Một cái gì về một người bị tai nạn trong bệnh viện.
- Sao? Cha không nghĩ cha thấy cái gì hết. Cha muốn nói, trong chừng mức nào đó không để ý. Tại sao?
- Nó - nó vang âm quá xấu. Con giả thiết đó là một tai nạn xe hay cái gì đó như thế. Nó nhắc đến người đàn bà đó - bất kể là ai - cho biết tên là Prudence Cowley nhưng không thể tìm ra địa chỉ của mình.
- Pruden Cowley? Con muốn nói -
- Vâng. Con chỉ - con chỉ ngạc nhiên. Đó là tên của Mẹ, phải không? con muốn nói đó là tên mẹ.
- Tất nhiên rồi.
- Con luôn luôn quên cái tên Prudence. Con muốn nói chúng ta không bao giờ nghĩ tên me là Prudence, cha và con, hay là Derek.
- Không, Tommy nói. Đó không phải loại tên thánh gắn liền với mẹ con.
- Không, con biết không phải. Con chỉ nghĩ đó là - khá kì dị. Cha không nghĩ đó có thể là một số bà con của mẹ sao?
- Cha cho là có thể. Cái tin này ở đâu?
- Bệnh viện tại chợ Basing, con nghĩ báo viết thế. Họ muốn biết nhiều hơn về mẹ, con hiểu. Con chỉ tự hỏi - con biết điều đó điên rồ khủng khiếp, chắc phải có một số lượng người gọi là Cowley và một số lượng người gọi là Prudence. Nhưng con nghĩ con chỉ gọi điện tìm hiểu thôi. Bảo đảm, con muốn nói, mẹ đang ở nhà và khoẻ và chỉ có thế.
- Cha hiểu, Tommy đáp, cha hiểu.
- Rồi, tiếp đi, cha, me đang ở nhà phải không?
- Không, mẹ không ở nhà và cha không biết mẹ có bình an hay không nữa.
- Cha nói gì thế? Deborah kêu lên. Thế mẹ đang làm gì chứ? Con lại tưởng cha đang đến London với cái hội cực kì bí mật kia vẫn còn tồn tại từ những ngày xa xưa, dông dài câu chuyện với những người bạn già.
- Con hoàn toàn có lí. Tommy nói. Cha về từ tối qua.
- Và cha khám phá ra mẹ đi vắng - hay cha biết mẹ đi vắng? Tiếp đi, cha, kể con nghe về chuyện đó đi. Cha lo âu. Con biết khi nào thì cha khá đủ với nỗi lo. Mẹ đang làm gì thế? Mẹ đang bận việc, phải không? con ước ở tuổi mẹ mẹ nên ngồi yên và đừng làm gì hết.
- Mẹ lo âu. Lo về một cái gì đó xảy ra có dính líu đến cái chết của dì Ada.
- Loại chuyện gì chứ?
- Một điều gì đó một trong những bệnh nhân của nhà điều dưỡng nói với mẹ. Mẹ đâm lo về bà già ấy. Bà ấy khởi sự nói nhiều chuyện và mẹ lo về những chuyện bà ấy nói. Và vì thế, khi chúng ta đi xem kĩ những đồ đạc của dì Ada để lại chúng ta gợi ý nói chuyện với bà già này và hình như bà ấy bất ngờ ra đi.
- Điều ấy hình như hoàn toàn bình thường, phải không?
- Một số người bà con của bà ấy đến và đem bà ấy đi.
- Điều ấy có vẻ hoàn toàn bình thường thôi, Deborah nói. Tại sao mẹ lại căng thẳng?
- Bà ấy nhét vào trong đầu rằng có thể một điều gì đó đã xảy đến cho bà già ấy.
- Con hiểu.
- Đừng đặt cược hết mức vào một cái gì, như cách ngôn vẫn nói, hình như bà ấy biến mất. Một cách khá tự nhiên. Cha muốn nói, được các luật sư và nhà băng xác minh và chỉ có thế. Chỉ - chúng ta không có khả năng tìm ra hiện bà ở đâu.
- Cha muốn nói mẹ đã chạy ra ngoài để tìm kiếm bà ta một nơi nào đó?
- Phải. Và mẹ không trở về khi mẹ nói mẹ đang trở về cách đây hai ngày.
- Và cha không nghe tin tức chi về mẹ sao?
- Không.
- Con ước vì chúa lòng lành cha chăm sóc mẹ chu đáo cho với. Deborah nói một cách nghiêm khắc.
- Không ai trong chúng ta có khả năng chăm sóc mẹ con một cách chu đáo cho được. Con cũng không, Deborah, nếu bắt đầu làm thế. Đó cùng một kiểu bà ra khỏi nhà trong thời chiến tranh và làm nhiều việc không phải việc của bà.
- Nhưng bây giờ khác. Con muốn nói, mẹ khá Già rồi. Mẹ phải ngồi tại nhà và tự săn sóc mình chứ. Con giả sử mẹ đang buồn chán thôi. Tất cả là chuyện dưới đáy.
- Bệnh viện Basing, con nói?
- Melfoldshire. Đi xe lửa từ London khoảng 1 giờ hay 1g rưỡi. Con nghĩ thế.
- Chính xác. Có một ngôi làng gần chợ Basing tên gọi là Sutton Chancellor.
- Cái ấy thì liên can gì? Deborah hỏi.
- Bây giờ đi sâu vào thì lâu. Tommy đáp. Ngôi làng ấy phải có dính líu tới bức tranh vẽ một ngôi nhà gần một chiếc cầu nhỏ bắt qua con kênh.
- Con không nghĩ con nghe cha rõ lắm. Cha đang nói về cái gì thế?
- Đừng quan tâm. Cha sẽ gọi điện đến bệnh viện Basing và tìm hiểu một vài thứ.
Cha có linh cảm mẹ con đang ở đó, an toàn. Người ta, nếu bị chấn thương sọ não, đầu tiên thường nhớ lại những việc xảy ra khi còn nhỏ, và chỉ chậm chạp tiến đến hiện tại. Mẹ đã trở lại cái tên hồi con gái. Có thể mẹ bị tai nạn xe hơi, nhưng cha cũng không ngạc nhiên nếu một ai đó cho mẹ một cú đấm vào đầu. Đó là loại việc không thể giải thích được xảy ra với mẹ con. Mẹ vướng vào mọi chuyện. Cha sẽ cho con biết cha khám phá ra cái gì.
Bốn mươi phút sau, Tommy Beresfold liếc nhìn đồng hồ tay và thốt ra một tiếng thở dài mệt mỏi, khi anh đặt ống nghe với một tiếng kêu lanh lảnh cuối cùng trên giá điện thoại. Albert tái xuất hiện.
- Bữa ăn tối của ông thế nào, thưa ông? Ông chưa ăn một cái gì, và con lấy làm tiếc mà báo ông con quên mất con gà - cháy thành than rồi.
- Tao không cần ăn, Tommy nói. Cái tao cần là đồ uống. Mang cho tao hai li whisky.
- Có ngay, thưa ông.
Vài phút sau anh mang đồ tươi mát theo yêu cầu đến chỗ Tommy đã ngồi thụp xuống trong một cái ghế bành cũ nát nhưng còn tiện lợi dành riêng cho anh đặc biệt sử dụng.
- Và bây giờ, tao giả thiết, mày muốn nghe mọi chuyện. Tommy nói.
- Thật sự là, thưa ông, Albert nói giọng nhẹ nhàng xin lỗi, con biết hầu hết. Ông thấy đó, có vẻ như là vấn đề của cô chủ và chỉ có thế, con lạm phép nhấc ống điện thoại nhánh trong phòng ngủ. Con không nghĩ ông sẽ để ý, thưa ông, không có vẻ như là cô chủ.
- Tao không quở trách mày, Tommy nói. Thật tế là, tao cám ơn mày. Nếu tao phải khởi sự giải thích -
- Nắm được mọi người, phải không? Bệnh viện bác sĩ và y tá trưởng.
- Không cần phải kiểm tra lại tất cả như thế.
- Bệnh viện Basing, Albert nói. Không bao giờ hở ra một lời về cái ấy, cô cũng không. Không bao giờ để đằng sau một địa chỉ hay cái gì tương tự.
- Cô không có ý định để lại địa chỉ. Tới chừng mức tao có thể hiểu được có lẽ cô bị ai đánh vào đầu từ hiện trường chỗ nào đó ngoài đường phố. Một kẻ nào đó chở cô đi trong một chiếc xe hơi rồi đẩy cô xuống chỗ nào đó bên lề đường, được nhặt lên như một cú tông xe và bỏ chạy thông thường. Anh thêm vào, gọi tao dậy 6g30 sáng mai. Tao muốn khởi hành sớm.
- Con xin lỗi con gà của ông lại bị cháy trong lò. Con chị định bỏ vào cho nóng rồi quên mất.
- Đừng lo về con gà nữa. Tao luôn luôn nghĩ chúng là loài chim rất điên, chạy dưới bánh xe và cục tác ỏm tỏi. Ngày mai chôn cái xác đi và cho nó một đám tang tử tế.
- Cô không chết tại cửa nhà hay cái gì khác, phải không?
- Dịu bớt sức tưởng tượng đầy kịch tính của mày đi, Tommy nói. Nếu mày thực hiện bất cứ sự lắng nghe chính xác nào mày đã nghe cô lại sẽ về một cách dễ thương, biết cô là ai hay đã là ai và cô ở đâu và người ta thề giữ cô ở đó chờ tao tới cho đến khi tao bắt đầu có trách nhiệm về cô lần nữa. Dù bất kì lí do gì cô cũng đừng nên cho phép mình lẻn đi và chạy bổ ra ngoài làm một số việc trinh thám ngu ngốc ấy chứ.
- Nói về chuyện thám tử, Albert nói, và lưỡng lự với một tiếng ho nhẹ.
- Tao không đặc biệt muốn nói về chuyện đó, Tommy nói. Quên nó đi, Albert. Hãy tự dạy mày việc giữ sổ sách kế toán hay làm bồn hoa ngoài cửa sổ có hơn không.
- Con chỉ đang nghĩ - con muốn nói, như một sự kiện những đầu mối -
- Đầu mối gì?
- Con đang nghĩ.
- Đó là nơi tất cả xuất phát mọi ưu phiền của cuộc sống. Nghĩ đi.
- Những đầu mối, Albert lại nói. Bức tranh đó, là ví dụ. Đó là một đầu mối, phải không?
Tommy để ý Albert đã treo bức tranh ngôi nhà bên con kênh lên bức tường.
Nếu bức tranh ấy là manh mối về một cái gì, ông nghĩ đó là một manh mối cho cái gì? anh ta hơi đỏ mặt về tính khiếm nhã của cái ngữ anh ta vừa mới bung ra. Tôi muốn nói- cái đó là cái gì? nó phải có một ý nghĩa nào đó. Điều tôi đang nghĩ đến, Albert nói, nếu ông tha thứ cho tôi nhắc đến -
- Được phép tiến hành đi, Albert.
- Cái con đang nghĩ đến là cái bàn giấy.
- Bàn giấy à?
- Vâng. Cái bàn đến từ đống đồ đạc được tẩy đi với cái bàn gia công nhỏ và hai cái ghế cùng những thứ khác. Nó là tài sản gia đình, ông nói?
- Nó thuộc về sở hữu của dì Ada.
- Đó là điều tôi muốn nói, thưa ông. Đó là thứ chỗ ông tìm thấy mọi đầu mối. Trong những cái bàn giấy cũ. Đồ cổ mà.
- Có khả năng. Tommy đáp.
- Đó không phải việc của tôi, tôi biết, và tôi cho là tôi thật ra không nên đi mà xáo trộn lên, nhưng trong khi ông đi xa, tôi không thể nhịn được. Tôi phải đi và nhìn qua nó.
- Cái gì - một cái nhìn vào bàn giấy?
- Phải, chỉ để xem coi có thể ở đó có một manh mối. Ông hiểu cho, những cái bàn như vậy, thường có những ngăn kéo bí mật.
- Có khả năng, Tommy nói.
- Đó, của ông đây. Có lẽ có một đầu mối ở đó, được che dấu. Khoá lại trong ngăn kéo mật.
- Đó là một ý kiến có thể đồng tình. Tommy nói. Nhưng không có lí do chi tao có thể hiểu được dì Ada lại dấu đồ vật trong những ngăn kéo bí mật cả.
- Ông không bao giờ biết những bà già. Họ thích thu dấu đồ đạc. Họ giống như những con quạ mỏ xám, hay những con chim ác là, tôi quên đó là cái gì. Có thể trong đó có một bản di chúc bí mật hay một cái gì được viết bằng mực không thể đọc được hay một kho vàng. Chỗ mà ông tìm thấy một kho tàng bị chôn dấu.
- Tao rất tiếc, Albert à, nhưng tao nghĩ tao sắp phải bất đồng với mày. Tao cực kì bảo đảm không có gì trong cái bàn giấy gia đình cũ kĩ dễ thương mà một thời thuộc về ông chú William của tao. Ở tuổi già ông trở thành một con người khác cáu kỉnh và lại điếc đặc và rất nóng nảy nữa.
- Cái điều con nghĩ, Albert nói, nhìn sẽ không gây bất cứ tổn hại nào, phải không? anh thêm vào một cách thánh thiện, dù sao nó cũng cần được lau chùi. Ông biết những đồ cũ với các bà già là thế nào rồi. Họ không dốc hết ra ngoài - không khi mà họ bị thấp khớp và thấy khó mà đi lại được.
Tommy im lặng một hai phút. Anh nhớ lại anh và Tuppence đã nhanh chóng nhìn qua những ngăn kéo bàn giấy, đã bỏ lại đồ đựng trong hai phong bì lớn và tẩy đi một vài cuộn len, hai áo len đan, một khăn quàng nhung đen và ba bao gối còn tốt từ những ngăn thấp hơn, chỗ đó họ để những vải vóc khác và những thứ linh tinh để tống khứ. Họ cũng xem xét kĩ những giấy tờ ở đó đựng trong những phong bì sau khi mang về nhà với họ. Ở đó không có gì đặc biệt lưu tâm cả.
- Chúng ta đã xem xét kĩ nội dung rồi, Albert, ông nói. Tiêu mất thật sự hai buổi tối đấy một hay hai lá thư cũ đáng lưu tâm, một số công thức dạy nấu món thịt nạc đun sôi, một số công thức dạy giữ trái cây, một số sổ lương thực và tem và những đồ đã có từ thời chiến tranh. Không có bất cứ cái chi đáng chú ý cả.
- Cái đó chỉ là những giấy tờ và đồ vật, như ông có thể nói. Cái mà mọi người giữ trong những bàn giấy và những ngăn kéo thông thường chỉ là hết cái này tới cái khác. Tôi muốn nói món đồ thật sự bí mật cơ. Khi còn là một gã trai, ông biết đấy, tôi làm việc sáu tháng với một gã buôn đồ cổ - rất thường xuyên giúp hắn ta làm giả đồ. Tôi bắt đầu biết về những ngăn kéo bí mật từ đó. Thường thường họ đạt tới cùng một mẫu. Ba hay bốn loại nổi tiếng và thỉnh thoảng họ làm khác đi. Ông có nghĩ không, thưa ông, ông phải nhìn qua một cái? Tôi muốn nói, khi không có ông ở đây tự tôi không thích cố gắng. Nó sẽ được giả sử là đúng. Anh nhìn Tommy với cái nhìn của một con chó đang nài xin chủ.
- Tiếp tục đi, Albert, Tommy nói, nhượng bộ. Hãy đi mà giả sử là đúng thôi.
‘Một mảnh đồ dùng rất đẹp, Tommy nghĩ, khi anh đứng bên cạnh Abert, quan sát món thưa kế đặc biệt từ dì Ada. Được giữ gìn đẹp, nước sơn cũ còn bóng đẹp, phô bày công phu tài nghệ giỏi và điêu luyện của những ngày đã qua.’
- Được rồi, Albert, đi mà tiến hành nào. Đây là chút hài hước của mày đấy. Nhưng đừng đi mà kéo căng nó nhé.
- Con từng rất cẩn thận mà. Con sẽ không đập vỡ nó đâu, hay trượt mũi dao vào hay làm cái gì tương tự. Đầu tiên chúng ta hạ mặt trước xuống và kéo hai tấm gỗ này ra rồi đặt nó lên. Được rồi, ông thấy đấy, cái nắp đi xuống đường này và đó là chỗ các bà già thường ngồi. Cái hộp giấy thấm nhỏ đẹp khảm xà cừ dì Ada có. Nó ở trong ngăn kéo bên trái.
- Có hai vật này. Tommy nói.
Anh kéo ra hai ngăn kéo thẳng đứng dán thành hai trụ giả.
- Ô, thưa ông. ông có thể tuồn giấy tờ vào trong, nhưng thật sự không có chi bí mật cả. chỗ thông thường nhất là mở cái tủ đựng chén bát nhỏ phía giữa - đáy của nó thường có một chỗ lõm trên bề mặt và ông tách phần đáy ra thì có một chỗ. Nhưng còn có những đường khác và những chỗ khác. Bàn giấy này là loại bàn có một cái giếng bên dưới.
- Nó không bí mật lắm, phải không? mày vừa lấy ra một miếng ván -
- Cái điểm là, có vẻ như ông thấy tất cả đều sẽ tìm ra ở đó. Ông kéo lùi miếng ván, có một khoang trống và ông có thể bỏ nhiều thứ ông muốn giữ khỏi bị sờ mó và chỉ có thế. Nhưng đó chưa phải là tất cả, ông có thể nói vậy. Bởi vì ông thấy, tại đây có một mảnh gỗ nhỏ phía trước, giống như một cái gờ nhỏ. Và ông có thể kéo nó lên, ông xem này.
- Phải, Tommy nói, vâng, tao có thể thấy rồi. Mày cứ kéo lên đi.
- Và ông có một cái gờ nhỏ ở đây, ngay sau phía giữa ổ khoá.
- Nhưng có gi trong đó đâu.
- Không, Albert nói, có vẻ không thoả mãn. Nhưng nếu ông trườn bàn tay vào cái gờ đó và ông lắc lư dọc theo phải hay trái, sẽ có hai ngăn kéo nhỏ mỏng, mỗi bên một cái. Có một hình bán nguyệt cắt xung quanh đỉnh, và ông có thể thọc ngón tay trên đó - dịu dàng kéo về phía ông - trong khi nói những câu này Albert dường như đang uốn eo lưng hầu như trong vị trí một nghệ sĩ uốn dẻo. Đôi khi họ đâm thủng một ít. Đợi - đợi - đến rồi.
Albert thọc ngón tay kéo một cái gì đó bên trong về phía anh. Anh ta nhẹ nhàng cào về phía trước cho đến khi một ngăn kéo nhỏ phô ra giữa khoảng không. Anh khều nó ra và đặt trước Tommy, với vẻ một con chó mang xương đến cho chủ.
- Bây giờ đợi một phút, thưa ông. Ở đây có một cái gì đó nữa, một cái gì đó gói trong một bì thư mỏng dài. Bây giờ chúng ta sẽ làm phía kia.
- Có một cái gì đây nữa.Albert nói. Một cái bì thư dán tem mà ai đó dấu ở đây lúc nào đó. Tôi sẽ không mở ra đâu - tôi không làm một việc như vậy. Giọng anh thánh thiện cực độ. Tôi nhường cho ông - Nhưng cái tôi nói là - chúng có thể là đầu mối -
Anh và Tommy tách nội dung của những ngăn kéo đầy bụi ra. Đầu tiên anh và Tommy lấy ra một bì thư có dán tem lăn theo chiều dài với một giải ruban bằng nhựa dẻo vấn quanh. Ngay khi vừa sờ đến giải ruban tách ra ngay.
- Trông giá trị đây, Albert nói.
Tommy liếc nhìn phong bì. Bì thư mang giòng chữ ‘bí mật’.
- Của ông đây, bí mật. Đó là một đầu mối. Albert nói.
Tommy tách những nội dung bên trong. Đó là một tuồng chữ viết tay phai màu, tuồng chữ viết rất nguyệch ngoạc, có nửa tờ giấy tờ giấy viết thư. Tommy xoay đủ phía còn Albert dựa qua vai chủ, hơi thở nặng nề.
- ‘Hoá đơn của bà MacDonald về kem Cá Hồi,Tommy đọc. ‘Dành cho tôi như một ân huệ đặc biệt. Lấy hai pound cà hồi cắt khúc giữa, nửa lít kem Jersey, một li uống ruợu Brandy và một trái dưa chuột tươi.’ Anh cắt ngang. Tao rất tiếc, Albert, đó là một đầu mối dẫn chúng ta đến chỗ nấu ăn ngon mà thôi, không nghi ngờ chi nữa.
Albert thốt ra những âm thanh ám chỉ sự nhờm tởm và bất mãn.
- Đừng lo, Tommy nói. Đây còn một cái khác để thử nữ nè.
Bì thư sau có dán tem không mang vẻ là một phong bì hoàn toàn cổ. Nó có hai con tem màu xám tro được dán cân đối, mỗi con tem mang hình một đóa hồng dại.
- Đẹp thât, Tommy nói, dì Ada khá là giàu óc tưởng tượng. Làm thế nào nấu món thịt bò băm đây, tao mong thế.
Tommy xé phong bì. Anh nhướng đôi mày lên. Mười tờ năm pound được xếp cẩn thận rơi ra ngoài.
- Chín tờ mỏng đẹp, Tommy nói. Chúng là bạc cũ. Mày biết đấy, loại bạc người ta thường có trong chiến tranh. Giấy tốt. Có lẽ ngày nay không còn hợp pháp nữa.
- Tiền! Albert nói. Bà ấy cần tất cả số tiền ấy cho cái gì?
- Ô, đó là tiền để dành của một bà già,Tommy nói. Dì Ada luôn luôn có tiền để dành. Cách đây nhiều năm dì bảo tao rằng mỗi người đàn bà nên luôn luôn có năm mươi ngàn pound trong thứ giấy bạc năm pound của mình phòng trường hợp mà bà gọi là cấp cứu.
- Tôi giả sử nó có ích khi cần tới.
- Tao không giả sử chúng tuyệt đối không dùng được nữa. Tao nghĩ mày có thể sắp sếp đổi ở ngân hàng.
- Đây còn một phong bì nữa, Albert nói. Cái phong bì từ ngăn kéo kia -
Phong bì tiếp cồng kềnh hơn. Dường như nội dung có nhiều hơn và có đến ba con tem lớn màu đỏ trông có vẻ quan trọng dán lên. Bên ngoài được viết cùng chữ viết tay nhọn đầu.’ Trong trường hợp tôi chết , bì thư này sẽ được gởi đến mà không mở ra cho luật sư của tôi, ông Rockbury thuộc hãng Rockbury và Tomkins, hay cho cháu trai của tôi Thomas Beresfold. Bất cứ kẻ nào không có thẩm quyền thì không được mở ra.’
Có nhiều tờ giấy viết tay sít nhau. Chữ viết tay rất xấu, rất nhọn và đây đó hơi khó đọc được. Tommy đọc lớn với một ít khó khăn.
‘Tôi, Ada Maria Fanshawe, đang viết ra đây những sự kiện chắc chắn mà do sự hiểu biết của tôi và do những người đang cư ngụ tại nhà điều dưỡng tên gọi là Sunny Ridge này kể lại với tôi. Tôi không thể đưa bằng chứng tất cả thông tin này là đúng nhưng dường như có một số lí do để tin rằng những nghi ngờ này - rất có thể thuộc về tội ác - những hoạt động đang xảy ra ở đây hay xảy ra ở chỗ khác. Elizabeth Moody, một phụ nữ ngớ ngẩn, nhưng tôi không nghĩ là không thật thà, tuyên bố răng cô đã nhận ra ở đây một tội ác trứ danh. Có thể có một kẻ đầu độc đang hoạt động giữa chúng tôi. Bản thân tôi thích giữ tâm trí phóng khoáng, nhưng tôi sẽ còn quan sát. Tôi dự định viết ra đây bất cứ sự kiện nào đến với sự hiểu biết của tôi. Toàn thể sự việc có thể là một ý tưởng hão huyền. Hoặc là luật sư của tôi hoặc cháu trai của tôi Thomas Beresfold, được yêu cầu làm cuộc điều tra đầy đủ.’
- Đó, Ablbert đắc thắng nói - bảo ông rồi mà! Đó là một ĐẦU MỐI!
Với cảm giác đau đớn cô nhận ra những vật xung quanh.” Mình đang ở trong một phòng bệnh,” Tuppence nghĩ. Thoả mãn với tình trạng tinh thần chỉ tiến triển đến mức ấy, cô không cố gắng dùng trí óc suy luận nữa. Cô ở trong một phòng bệnh và đầu cô đau. Tại sao lại đau, tại sao cô ở trong một phòng bệnh, cô không hoàn toàn chắc. ‘tai nạn?’ Tuppence nghĩ.
Nhiều y tá đi lại xung quanh giường. Điều này dường như khá bình thường. Cô khép mắt và cố thử một ít suy nghĩ thận trọng. Một cảnh lờ mờ về một bóng người già nua trong bộ áo chùng thâm, tình cờ đi qua bức màn trí nhớ. ‘Cha?’ Tuppence nghi ngờ nói thầm. ‘Có phải cha không?’ Cô không thể thật sự nhớ. Cô giả thiết vậy thôi.
“ Nhưng ta làm gì để bị ốm trong một bệnh viện chứ?” Tuppence nghĩ. “ta muốn nói, ta điều dưỡng trong một bệnh viện, vậy ta phải mặc đồng phục. Đồng phục V.A.D. Trời ơi,” Tuppence nói.
Ngay sau đó một y tá xuất hiện gần giường cô.
Bây giờ cảm thấy khoẻ hơn chứ? Y tá nói với giọng vui vẻ giả tạo. Tốt rồi, phải không? Tuppence không hoàn tòan chắc điều đó là Tốt. Người y tá nói cái gì về một tách trà.
- Dường như mình là một bịnh nhân, Tuppence nói hơi bất mãn về chính mình. Cô nằm đó bất động, cố phục hồi lại trong trí nhớ nhiều tư tưởng và từ khác nhau.
- Lính, V.A.D. Tất nhiên. Mình là một V.A.D.
Người y tá mang trà vào trong thứ cốc cho ăn và giúp cô trong khi cô nhấp trà. Sự đau đớn xuyên qua đầu lần nữa. ‘Một V.A.D. đó là những gì ta là’ Tuppence nói lớn.
Người y tá nhìn cô không hiểu.
- Đầu tôi đau, Tuppence nói, thêm vào một phát biểu sự kiện.
- Sẽ tốt ngay thôi mà.
Cô lấy lại tách cho ăn, thuật lại với một nữ y tá trưởng khi bà đi ngang. ‘Số 14 tỉnh rồi. Cô ấy hơi rệu rã, tôi nghĩ thế.
- Cô ấy nói gì thế?
- Nói cô là một V.I.P, người y tá nói.
Nữ y tá trưởng khịt mũi cái đó là điều cô vẫn cảm thấy về những bệnh nhân không quan trọng họ tự cho mình là V.I.P.
Chúng ta nên xem xét về cái đó, nữ y tá trưởng nói. Mau lên, y tá, đừng suốt ngày với cái tách cho ăn ấy nữa.
Tuppence vẫn còn ngủ gà gật trên gối. Cô vẫn chưa vượt qua tình trạng những ý tướng vụt nhanh qua trí nhớ như một đám rước vô tổ chức.
Có một người nào đó phải ở đây chứ, cô cảm thấy thế, một người nào đó cô hoàn toàn biết rõ. Có một cái gì rất xa lạ về bệnh viện này. Không phải bệnh viện cô nhớ. Không phải bệnh viện cô làm điều dưỡng.” Tất cả đều là lính. Khoa giải phẫu bệnh, mình làm bên dãy A và dãy B. Cô mở mắt và nhìn quanh. Cô tự quyết đó không phải là một bệnh viện trước kia cô đã thấy và càng không liên hệ chi tới việc điều dưỡng những trường hợp giải phẫu cả, quân đội hay cái gì khác.
- Mình tự hỏi đây là đâu. Chỗ nào? Cô cố gắng nghĩ cái tên một chỗ nào đó. Chỉ có những chỗ cô có thể nghĩ ra là London và Southampton.
Người nữ y tá trưởng tái xuất hiện bên giường.
- Cảm thấy khoẻ hơn chứ, tôi hi vọng thế.
- Tôi khỏe rồi, Tuppence đáp. Có chuyện gì với tôi thế?
- Cô bị thương ở đầu. Tôi hi vọng cô thấy bớt đau hơn, phải không?
- Vẫn còn đau. Tôi ở đâu vậy?
- Bệnh viện Hoàng gia Basing. Nó không có nghĩa gì với cô cả.
- Một vị cha cố. Cô nói .
- Xin lỗi?
- Chúng tôi không thể viết tên cô trên tờ giấy ăn kiêng được, nữa y ta trửơng nói.
Cô cầm cây bút may Biro sẵn sàng và nhìn Tuppence dò hỏi.
- Tên tôi?
- Phải, cô ta đáp. Để ghi lại, cô nói thêm tràn đầy hi vọng.
Tuppence im lặng, suy nghĩ. Tên cô. Tên cô là gì?” điên làm sao, dường như mình đã quên nó rồi. Tuy nhiên mình phải có một cái tên. Thình lình một cảm giác nhẹ nhõm yếu ớt chợt đến. Khuôn mặt của vị cha cố già bất ngờ bùng sáng lên qua trí nhớ và cô hạ quyết định.” Tất nhiên rồi, Tuppence.”
- P-r-u-e-n-c-e.
- Phải, Prudence.
- Đó là tên thánh của cô. Còn họ?
- Cowley. C-o-w-l-e-y.
- Rất vui là đã nói thật. Cô ta nói, và đi ra với vẻ của một người mà bản ghi của họ không còn làm cho cô lo lắng nữa.
Tuppence cảm thấy mơ hồ vui. Pruden Cowley. Pruden Cowley trong V.A.D. và cha cô là một cha cố - Tại một giáo xứ thời chiến tranh và..”không thể tin được,” ‘mình dường như làm chuyện này hoàn toàn sai lầm. Dường như với mình tất cả đã xảy ra cách đây lâu lắm rồi.’ Cô thì thầm.. ‘Có phải là đứa con tội nghiệp của cô không?’ cô tự hỏi. Có phải cô vừa nói điều đó hay một kẻ nào khác đã nói?
Nữ y tá trưởng trở vào lần nữa.
- Địa chỉ của cô, cô nói, Cô - Cô Cowley, hay bà Cowley? Có phải cô hỏi về một đứa trẻ không?
- Có phải đứa con tội nghiệp của cô không? có một người nào đó nói với tôi hay tôi đang nói với họ?
- Tôi nghĩ bây giờ cô nên ngủ một chút nếu tôi là cô, cô thân mến ạ.
- Cô đi ra và đem thông tin cô đã kiếm được đến chỗ thích hợp.
- Dường như cô ấy đã hồi sức, thưa bác sĩ. Cô nhận xét, và cô nói tên cô là Prudence Cowley. Nhưng hình cô không nhớ tên cô. Cô nói cái gì đó về một đứa trẻ.
- Tốt, bác sĩ nói, với vẻ thờ ơ thường lệ. Chúng ta sẽ cho cô hai mươi bốn giờ. Cô ta đang hồi phục tốt từ sự chấn thương sọ não.
Tommy dò dẫm với chìa khoá cửa rập ngoài. Trước khi anh có thể xử dụng nó cửa mở ra và Abert đứng trong lề cửa mở rộng.
- Cô đã về chưa?
Albert chậm chạp lắc đầu.
- Không lời nào từ cô, không thư điện thoại, không thư viết - không điện tín?
- Tuyệt đối không có gì để tôi kể với ông cả, thưa ông. Và không có gì từ bất cứ ai khác. Chúng đang trốn tránh - nhưng chúng bắt cô. Đó là những gì tôi nghĩ. Chúng đã bắt cô.
- Mày nói cái qủy gì thế - chúng bắt cô? Tommy hỏi. Những chuyện mày đọc. Ai bắt cô?
- Ông hiểu điều tôi nói mà. Bọn băng nhóm.
- Băng nhóm nào chứ?
- Một trong những băng nhóm có thể múa dao. Hay một tổ chức quốc tế.
- Ngừng nói điều rác rưởi đó lại. Mày biết tao nghĩ gì không hả?
Albert nhìn ông dò hỏi.
- Tao nghĩ thật thiếu thận trọng việc cô mày không hề gởi một lời hay cái gì đó cho chúng ta.
- Ô, con hiểu điều ông nói. Con cho rằng ông Có Thể nói thế. Nếu nói ra làm ông hạnh phúc. Hắn thêm vào khá bất hạnh. Hắn lấy cái gói từ tay Tommy. Con biết ông lại mang cái này về.
- Phải, tao mang bức tranh vấy máu ấy về, Tommy đáp. Không ích lợi gì.
- Ông đã không biết thêm cái gì từ đó sao?
- Không hoàn toàn như thế. Tao Có biết đôi điều nhưng như là cái tao biết có ích với tao không thì tao chịu. Dr. Murray không gọi điện sao, tao tưởng thế, hay cô Packard từ nhà Điều Dưỡng Sunny Ridge? Không có tin gì à?
- Không ai gọi điện trừ ông chủ cửa hàng thực phẩm bảo ông có bắp cà tím. Ông biết cô chủ thích cà tím. Ông luôn luôn cho cô hay. Nhưng tôi bảo ông cô bây giờ không có thể ăn được. Anh ta nói thêm. Tôi có làm con gà ăn tối.
- Thật kì là mày không bao giờ có thể nghĩ ra cái gì khác ngoài những con gà. Tommy nói vẻ cau có.
- Lần này đó là cái họ gọi Gà Mới Nở. Đầy xương.
- Ừa.
Điện thoại reo vang. Trong nháy mắt Tommy nhảy ra khỏi chỗ ngồi và nhào đến chỗ để máy.
- Alô... Alô?
Một giọng nói vang yếu ớt từ đàng xa. Ông Thomas Beresfold? Ông có thể nhận một cú gọi cá nhân từ Invergashly?
- Vâng.
- Xin vui lòng giữ máy.
Tommy đợi. Sự kích động của ông bây giờ dịu xuống. Ông phải đợi một lúc. Rồi một giọng nói ông biết, rõ ràng và kiên quyết, vang lên. Tiếng nói của con gái ông.
- Hello, có phải cha đó không? Cha?
- Deborah!
- Vâng. Tại sao giọng cha như đứt hơi thế, cha vừa mới chạy sao?
Những đứa con gái, Tommy nghĩ, luôn luôn bình phẩm.
- Ở tuổi cha thì hơi khò khè một chút. Con khoẻ không, Deborah?
- Ô, con ổn thôi, nhìn đây, Cha, con thấy một cái gì đó trong báo. Có lẽ cha cũng thấy nữa. Con ngạc nhiên về nó. Một cái gì về một người bị tai nạn trong bệnh viện.
- Sao? Cha không nghĩ cha thấy cái gì hết. Cha muốn nói, trong chừng mức nào đó không để ý. Tại sao?
- Nó - nó vang âm quá xấu. Con giả thiết đó là một tai nạn xe hay cái gì đó như thế. Nó nhắc đến người đàn bà đó - bất kể là ai - cho biết tên là Prudence Cowley nhưng không thể tìm ra địa chỉ của mình.
- Pruden Cowley? Con muốn nói -
- Vâng. Con chỉ - con chỉ ngạc nhiên. Đó là tên của Mẹ, phải không? con muốn nói đó là tên mẹ.
- Tất nhiên rồi.
- Con luôn luôn quên cái tên Prudence. Con muốn nói chúng ta không bao giờ nghĩ tên me là Prudence, cha và con, hay là Derek.
- Không, Tommy nói. Đó không phải loại tên thánh gắn liền với mẹ con.
- Không, con biết không phải. Con chỉ nghĩ đó là - khá kì dị. Cha không nghĩ đó có thể là một số bà con của mẹ sao?
- Cha cho là có thể. Cái tin này ở đâu?
- Bệnh viện tại chợ Basing, con nghĩ báo viết thế. Họ muốn biết nhiều hơn về mẹ, con hiểu. Con chỉ tự hỏi - con biết điều đó điên rồ khủng khiếp, chắc phải có một số lượng người gọi là Cowley và một số lượng người gọi là Prudence. Nhưng con nghĩ con chỉ gọi điện tìm hiểu thôi. Bảo đảm, con muốn nói, mẹ đang ở nhà và khoẻ và chỉ có thế.
- Cha hiểu, Tommy đáp, cha hiểu.
- Rồi, tiếp đi, cha, me đang ở nhà phải không?
- Không, mẹ không ở nhà và cha không biết mẹ có bình an hay không nữa.
- Cha nói gì thế? Deborah kêu lên. Thế mẹ đang làm gì chứ? Con lại tưởng cha đang đến London với cái hội cực kì bí mật kia vẫn còn tồn tại từ những ngày xa xưa, dông dài câu chuyện với những người bạn già.
- Con hoàn toàn có lí. Tommy nói. Cha về từ tối qua.
- Và cha khám phá ra mẹ đi vắng - hay cha biết mẹ đi vắng? Tiếp đi, cha, kể con nghe về chuyện đó đi. Cha lo âu. Con biết khi nào thì cha khá đủ với nỗi lo. Mẹ đang làm gì thế? Mẹ đang bận việc, phải không? con ước ở tuổi mẹ mẹ nên ngồi yên và đừng làm gì hết.
- Mẹ lo âu. Lo về một cái gì đó xảy ra có dính líu đến cái chết của dì Ada.
- Loại chuyện gì chứ?
- Một điều gì đó một trong những bệnh nhân của nhà điều dưỡng nói với mẹ. Mẹ đâm lo về bà già ấy. Bà ấy khởi sự nói nhiều chuyện và mẹ lo về những chuyện bà ấy nói. Và vì thế, khi chúng ta đi xem kĩ những đồ đạc của dì Ada để lại chúng ta gợi ý nói chuyện với bà già này và hình như bà ấy bất ngờ ra đi.
- Điều ấy hình như hoàn toàn bình thường, phải không?
- Một số người bà con của bà ấy đến và đem bà ấy đi.
- Điều ấy có vẻ hoàn toàn bình thường thôi, Deborah nói. Tại sao mẹ lại căng thẳng?
- Bà ấy nhét vào trong đầu rằng có thể một điều gì đó đã xảy đến cho bà già ấy.
- Con hiểu.
- Đừng đặt cược hết mức vào một cái gì, như cách ngôn vẫn nói, hình như bà ấy biến mất. Một cách khá tự nhiên. Cha muốn nói, được các luật sư và nhà băng xác minh và chỉ có thế. Chỉ - chúng ta không có khả năng tìm ra hiện bà ở đâu.
- Cha muốn nói mẹ đã chạy ra ngoài để tìm kiếm bà ta một nơi nào đó?
- Phải. Và mẹ không trở về khi mẹ nói mẹ đang trở về cách đây hai ngày.
- Và cha không nghe tin tức chi về mẹ sao?
- Không.
- Con ước vì chúa lòng lành cha chăm sóc mẹ chu đáo cho với. Deborah nói một cách nghiêm khắc.
- Không ai trong chúng ta có khả năng chăm sóc mẹ con một cách chu đáo cho được. Con cũng không, Deborah, nếu bắt đầu làm thế. Đó cùng một kiểu bà ra khỏi nhà trong thời chiến tranh và làm nhiều việc không phải việc của bà.
- Nhưng bây giờ khác. Con muốn nói, mẹ khá Già rồi. Mẹ phải ngồi tại nhà và tự săn sóc mình chứ. Con giả sử mẹ đang buồn chán thôi. Tất cả là chuyện dưới đáy.
- Bệnh viện Basing, con nói?
- Melfoldshire. Đi xe lửa từ London khoảng 1 giờ hay 1g rưỡi. Con nghĩ thế.
- Chính xác. Có một ngôi làng gần chợ Basing tên gọi là Sutton Chancellor.
- Cái ấy thì liên can gì? Deborah hỏi.
- Bây giờ đi sâu vào thì lâu. Tommy đáp. Ngôi làng ấy phải có dính líu tới bức tranh vẽ một ngôi nhà gần một chiếc cầu nhỏ bắt qua con kênh.
- Con không nghĩ con nghe cha rõ lắm. Cha đang nói về cái gì thế?
- Đừng quan tâm. Cha sẽ gọi điện đến bệnh viện Basing và tìm hiểu một vài thứ.
Cha có linh cảm mẹ con đang ở đó, an toàn. Người ta, nếu bị chấn thương sọ não, đầu tiên thường nhớ lại những việc xảy ra khi còn nhỏ, và chỉ chậm chạp tiến đến hiện tại. Mẹ đã trở lại cái tên hồi con gái. Có thể mẹ bị tai nạn xe hơi, nhưng cha cũng không ngạc nhiên nếu một ai đó cho mẹ một cú đấm vào đầu. Đó là loại việc không thể giải thích được xảy ra với mẹ con. Mẹ vướng vào mọi chuyện. Cha sẽ cho con biết cha khám phá ra cái gì.
Bốn mươi phút sau, Tommy Beresfold liếc nhìn đồng hồ tay và thốt ra một tiếng thở dài mệt mỏi, khi anh đặt ống nghe với một tiếng kêu lanh lảnh cuối cùng trên giá điện thoại. Albert tái xuất hiện.
- Bữa ăn tối của ông thế nào, thưa ông? Ông chưa ăn một cái gì, và con lấy làm tiếc mà báo ông con quên mất con gà - cháy thành than rồi.
- Tao không cần ăn, Tommy nói. Cái tao cần là đồ uống. Mang cho tao hai li whisky.
- Có ngay, thưa ông.
Vài phút sau anh mang đồ tươi mát theo yêu cầu đến chỗ Tommy đã ngồi thụp xuống trong một cái ghế bành cũ nát nhưng còn tiện lợi dành riêng cho anh đặc biệt sử dụng.
- Và bây giờ, tao giả thiết, mày muốn nghe mọi chuyện. Tommy nói.
- Thật sự là, thưa ông, Albert nói giọng nhẹ nhàng xin lỗi, con biết hầu hết. Ông thấy đó, có vẻ như là vấn đề của cô chủ và chỉ có thế, con lạm phép nhấc ống điện thoại nhánh trong phòng ngủ. Con không nghĩ ông sẽ để ý, thưa ông, không có vẻ như là cô chủ.
- Tao không quở trách mày, Tommy nói. Thật tế là, tao cám ơn mày. Nếu tao phải khởi sự giải thích -
- Nắm được mọi người, phải không? Bệnh viện bác sĩ và y tá trưởng.
- Không cần phải kiểm tra lại tất cả như thế.
- Bệnh viện Basing, Albert nói. Không bao giờ hở ra một lời về cái ấy, cô cũng không. Không bao giờ để đằng sau một địa chỉ hay cái gì tương tự.
- Cô không có ý định để lại địa chỉ. Tới chừng mức tao có thể hiểu được có lẽ cô bị ai đánh vào đầu từ hiện trường chỗ nào đó ngoài đường phố. Một kẻ nào đó chở cô đi trong một chiếc xe hơi rồi đẩy cô xuống chỗ nào đó bên lề đường, được nhặt lên như một cú tông xe và bỏ chạy thông thường. Anh thêm vào, gọi tao dậy 6g30 sáng mai. Tao muốn khởi hành sớm.
- Con xin lỗi con gà của ông lại bị cháy trong lò. Con chị định bỏ vào cho nóng rồi quên mất.
- Đừng lo về con gà nữa. Tao luôn luôn nghĩ chúng là loài chim rất điên, chạy dưới bánh xe và cục tác ỏm tỏi. Ngày mai chôn cái xác đi và cho nó một đám tang tử tế.
- Cô không chết tại cửa nhà hay cái gì khác, phải không?
- Dịu bớt sức tưởng tượng đầy kịch tính của mày đi, Tommy nói. Nếu mày thực hiện bất cứ sự lắng nghe chính xác nào mày đã nghe cô lại sẽ về một cách dễ thương, biết cô là ai hay đã là ai và cô ở đâu và người ta thề giữ cô ở đó chờ tao tới cho đến khi tao bắt đầu có trách nhiệm về cô lần nữa. Dù bất kì lí do gì cô cũng đừng nên cho phép mình lẻn đi và chạy bổ ra ngoài làm một số việc trinh thám ngu ngốc ấy chứ.
- Nói về chuyện thám tử, Albert nói, và lưỡng lự với một tiếng ho nhẹ.
- Tao không đặc biệt muốn nói về chuyện đó, Tommy nói. Quên nó đi, Albert. Hãy tự dạy mày việc giữ sổ sách kế toán hay làm bồn hoa ngoài cửa sổ có hơn không.
- Con chỉ đang nghĩ - con muốn nói, như một sự kiện những đầu mối -
- Đầu mối gì?
- Con đang nghĩ.
- Đó là nơi tất cả xuất phát mọi ưu phiền của cuộc sống. Nghĩ đi.
- Những đầu mối, Albert lại nói. Bức tranh đó, là ví dụ. Đó là một đầu mối, phải không?
Tommy để ý Albert đã treo bức tranh ngôi nhà bên con kênh lên bức tường.
Nếu bức tranh ấy là manh mối về một cái gì, ông nghĩ đó là một manh mối cho cái gì? anh ta hơi đỏ mặt về tính khiếm nhã của cái ngữ anh ta vừa mới bung ra. Tôi muốn nói- cái đó là cái gì? nó phải có một ý nghĩa nào đó. Điều tôi đang nghĩ đến, Albert nói, nếu ông tha thứ cho tôi nhắc đến -
- Được phép tiến hành đi, Albert.
- Cái con đang nghĩ đến là cái bàn giấy.
- Bàn giấy à?
- Vâng. Cái bàn đến từ đống đồ đạc được tẩy đi với cái bàn gia công nhỏ và hai cái ghế cùng những thứ khác. Nó là tài sản gia đình, ông nói?
- Nó thuộc về sở hữu của dì Ada.
- Đó là điều tôi muốn nói, thưa ông. Đó là thứ chỗ ông tìm thấy mọi đầu mối. Trong những cái bàn giấy cũ. Đồ cổ mà.
- Có khả năng. Tommy đáp.
- Đó không phải việc của tôi, tôi biết, và tôi cho là tôi thật ra không nên đi mà xáo trộn lên, nhưng trong khi ông đi xa, tôi không thể nhịn được. Tôi phải đi và nhìn qua nó.
- Cái gì - một cái nhìn vào bàn giấy?
- Phải, chỉ để xem coi có thể ở đó có một manh mối. Ông hiểu cho, những cái bàn như vậy, thường có những ngăn kéo bí mật.
- Có khả năng, Tommy nói.
- Đó, của ông đây. Có lẽ có một đầu mối ở đó, được che dấu. Khoá lại trong ngăn kéo mật.
- Đó là một ý kiến có thể đồng tình. Tommy nói. Nhưng không có lí do chi tao có thể hiểu được dì Ada lại dấu đồ vật trong những ngăn kéo bí mật cả.
- Ông không bao giờ biết những bà già. Họ thích thu dấu đồ đạc. Họ giống như những con quạ mỏ xám, hay những con chim ác là, tôi quên đó là cái gì. Có thể trong đó có một bản di chúc bí mật hay một cái gì được viết bằng mực không thể đọc được hay một kho vàng. Chỗ mà ông tìm thấy một kho tàng bị chôn dấu.
- Tao rất tiếc, Albert à, nhưng tao nghĩ tao sắp phải bất đồng với mày. Tao cực kì bảo đảm không có gì trong cái bàn giấy gia đình cũ kĩ dễ thương mà một thời thuộc về ông chú William của tao. Ở tuổi già ông trở thành một con người khác cáu kỉnh và lại điếc đặc và rất nóng nảy nữa.
- Cái điều con nghĩ, Albert nói, nhìn sẽ không gây bất cứ tổn hại nào, phải không? anh thêm vào một cách thánh thiện, dù sao nó cũng cần được lau chùi. Ông biết những đồ cũ với các bà già là thế nào rồi. Họ không dốc hết ra ngoài - không khi mà họ bị thấp khớp và thấy khó mà đi lại được.
Tommy im lặng một hai phút. Anh nhớ lại anh và Tuppence đã nhanh chóng nhìn qua những ngăn kéo bàn giấy, đã bỏ lại đồ đựng trong hai phong bì lớn và tẩy đi một vài cuộn len, hai áo len đan, một khăn quàng nhung đen và ba bao gối còn tốt từ những ngăn thấp hơn, chỗ đó họ để những vải vóc khác và những thứ linh tinh để tống khứ. Họ cũng xem xét kĩ những giấy tờ ở đó đựng trong những phong bì sau khi mang về nhà với họ. Ở đó không có gì đặc biệt lưu tâm cả.
- Chúng ta đã xem xét kĩ nội dung rồi, Albert, ông nói. Tiêu mất thật sự hai buổi tối đấy một hay hai lá thư cũ đáng lưu tâm, một số công thức dạy nấu món thịt nạc đun sôi, một số công thức dạy giữ trái cây, một số sổ lương thực và tem và những đồ đã có từ thời chiến tranh. Không có bất cứ cái chi đáng chú ý cả.
- Cái đó chỉ là những giấy tờ và đồ vật, như ông có thể nói. Cái mà mọi người giữ trong những bàn giấy và những ngăn kéo thông thường chỉ là hết cái này tới cái khác. Tôi muốn nói món đồ thật sự bí mật cơ. Khi còn là một gã trai, ông biết đấy, tôi làm việc sáu tháng với một gã buôn đồ cổ - rất thường xuyên giúp hắn ta làm giả đồ. Tôi bắt đầu biết về những ngăn kéo bí mật từ đó. Thường thường họ đạt tới cùng một mẫu. Ba hay bốn loại nổi tiếng và thỉnh thoảng họ làm khác đi. Ông có nghĩ không, thưa ông, ông phải nhìn qua một cái? Tôi muốn nói, khi không có ông ở đây tự tôi không thích cố gắng. Nó sẽ được giả sử là đúng. Anh nhìn Tommy với cái nhìn của một con chó đang nài xin chủ.
- Tiếp tục đi, Albert, Tommy nói, nhượng bộ. Hãy đi mà giả sử là đúng thôi.
‘Một mảnh đồ dùng rất đẹp, Tommy nghĩ, khi anh đứng bên cạnh Abert, quan sát món thưa kế đặc biệt từ dì Ada. Được giữ gìn đẹp, nước sơn cũ còn bóng đẹp, phô bày công phu tài nghệ giỏi và điêu luyện của những ngày đã qua.’
- Được rồi, Albert, đi mà tiến hành nào. Đây là chút hài hước của mày đấy. Nhưng đừng đi mà kéo căng nó nhé.
- Con từng rất cẩn thận mà. Con sẽ không đập vỡ nó đâu, hay trượt mũi dao vào hay làm cái gì tương tự. Đầu tiên chúng ta hạ mặt trước xuống và kéo hai tấm gỗ này ra rồi đặt nó lên. Được rồi, ông thấy đấy, cái nắp đi xuống đường này và đó là chỗ các bà già thường ngồi. Cái hộp giấy thấm nhỏ đẹp khảm xà cừ dì Ada có. Nó ở trong ngăn kéo bên trái.
- Có hai vật này. Tommy nói.
Anh kéo ra hai ngăn kéo thẳng đứng dán thành hai trụ giả.
- Ô, thưa ông. ông có thể tuồn giấy tờ vào trong, nhưng thật sự không có chi bí mật cả. chỗ thông thường nhất là mở cái tủ đựng chén bát nhỏ phía giữa - đáy của nó thường có một chỗ lõm trên bề mặt và ông tách phần đáy ra thì có một chỗ. Nhưng còn có những đường khác và những chỗ khác. Bàn giấy này là loại bàn có một cái giếng bên dưới.
- Nó không bí mật lắm, phải không? mày vừa lấy ra một miếng ván -
- Cái điểm là, có vẻ như ông thấy tất cả đều sẽ tìm ra ở đó. Ông kéo lùi miếng ván, có một khoang trống và ông có thể bỏ nhiều thứ ông muốn giữ khỏi bị sờ mó và chỉ có thế. Nhưng đó chưa phải là tất cả, ông có thể nói vậy. Bởi vì ông thấy, tại đây có một mảnh gỗ nhỏ phía trước, giống như một cái gờ nhỏ. Và ông có thể kéo nó lên, ông xem này.
- Phải, Tommy nói, vâng, tao có thể thấy rồi. Mày cứ kéo lên đi.
- Và ông có một cái gờ nhỏ ở đây, ngay sau phía giữa ổ khoá.
- Nhưng có gi trong đó đâu.
- Không, Albert nói, có vẻ không thoả mãn. Nhưng nếu ông trườn bàn tay vào cái gờ đó và ông lắc lư dọc theo phải hay trái, sẽ có hai ngăn kéo nhỏ mỏng, mỗi bên một cái. Có một hình bán nguyệt cắt xung quanh đỉnh, và ông có thể thọc ngón tay trên đó - dịu dàng kéo về phía ông - trong khi nói những câu này Albert dường như đang uốn eo lưng hầu như trong vị trí một nghệ sĩ uốn dẻo. Đôi khi họ đâm thủng một ít. Đợi - đợi - đến rồi.
Albert thọc ngón tay kéo một cái gì đó bên trong về phía anh. Anh ta nhẹ nhàng cào về phía trước cho đến khi một ngăn kéo nhỏ phô ra giữa khoảng không. Anh khều nó ra và đặt trước Tommy, với vẻ một con chó mang xương đến cho chủ.
- Bây giờ đợi một phút, thưa ông. Ở đây có một cái gì đó nữa, một cái gì đó gói trong một bì thư mỏng dài. Bây giờ chúng ta sẽ làm phía kia.
- Có một cái gì đây nữa.Albert nói. Một cái bì thư dán tem mà ai đó dấu ở đây lúc nào đó. Tôi sẽ không mở ra đâu - tôi không làm một việc như vậy. Giọng anh thánh thiện cực độ. Tôi nhường cho ông - Nhưng cái tôi nói là - chúng có thể là đầu mối -
Anh và Tommy tách nội dung của những ngăn kéo đầy bụi ra. Đầu tiên anh và Tommy lấy ra một bì thư có dán tem lăn theo chiều dài với một giải ruban bằng nhựa dẻo vấn quanh. Ngay khi vừa sờ đến giải ruban tách ra ngay.
- Trông giá trị đây, Albert nói.
Tommy liếc nhìn phong bì. Bì thư mang giòng chữ ‘bí mật’.
- Của ông đây, bí mật. Đó là một đầu mối. Albert nói.
Tommy tách những nội dung bên trong. Đó là một tuồng chữ viết tay phai màu, tuồng chữ viết rất nguyệch ngoạc, có nửa tờ giấy tờ giấy viết thư. Tommy xoay đủ phía còn Albert dựa qua vai chủ, hơi thở nặng nề.
- ‘Hoá đơn của bà MacDonald về kem Cá Hồi,Tommy đọc. ‘Dành cho tôi như một ân huệ đặc biệt. Lấy hai pound cà hồi cắt khúc giữa, nửa lít kem Jersey, một li uống ruợu Brandy và một trái dưa chuột tươi.’ Anh cắt ngang. Tao rất tiếc, Albert, đó là một đầu mối dẫn chúng ta đến chỗ nấu ăn ngon mà thôi, không nghi ngờ chi nữa.
Albert thốt ra những âm thanh ám chỉ sự nhờm tởm và bất mãn.
- Đừng lo, Tommy nói. Đây còn một cái khác để thử nữ nè.
Bì thư sau có dán tem không mang vẻ là một phong bì hoàn toàn cổ. Nó có hai con tem màu xám tro được dán cân đối, mỗi con tem mang hình một đóa hồng dại.
- Đẹp thât, Tommy nói, dì Ada khá là giàu óc tưởng tượng. Làm thế nào nấu món thịt bò băm đây, tao mong thế.
Tommy xé phong bì. Anh nhướng đôi mày lên. Mười tờ năm pound được xếp cẩn thận rơi ra ngoài.
- Chín tờ mỏng đẹp, Tommy nói. Chúng là bạc cũ. Mày biết đấy, loại bạc người ta thường có trong chiến tranh. Giấy tốt. Có lẽ ngày nay không còn hợp pháp nữa.
- Tiền! Albert nói. Bà ấy cần tất cả số tiền ấy cho cái gì?
- Ô, đó là tiền để dành của một bà già,Tommy nói. Dì Ada luôn luôn có tiền để dành. Cách đây nhiều năm dì bảo tao rằng mỗi người đàn bà nên luôn luôn có năm mươi ngàn pound trong thứ giấy bạc năm pound của mình phòng trường hợp mà bà gọi là cấp cứu.
- Tôi giả sử nó có ích khi cần tới.
- Tao không giả sử chúng tuyệt đối không dùng được nữa. Tao nghĩ mày có thể sắp sếp đổi ở ngân hàng.
- Đây còn một phong bì nữa, Albert nói. Cái phong bì từ ngăn kéo kia -
Phong bì tiếp cồng kềnh hơn. Dường như nội dung có nhiều hơn và có đến ba con tem lớn màu đỏ trông có vẻ quan trọng dán lên. Bên ngoài được viết cùng chữ viết tay nhọn đầu.’ Trong trường hợp tôi chết , bì thư này sẽ được gởi đến mà không mở ra cho luật sư của tôi, ông Rockbury thuộc hãng Rockbury và Tomkins, hay cho cháu trai của tôi Thomas Beresfold. Bất cứ kẻ nào không có thẩm quyền thì không được mở ra.’
Có nhiều tờ giấy viết tay sít nhau. Chữ viết tay rất xấu, rất nhọn và đây đó hơi khó đọc được. Tommy đọc lớn với một ít khó khăn.
‘Tôi, Ada Maria Fanshawe, đang viết ra đây những sự kiện chắc chắn mà do sự hiểu biết của tôi và do những người đang cư ngụ tại nhà điều dưỡng tên gọi là Sunny Ridge này kể lại với tôi. Tôi không thể đưa bằng chứng tất cả thông tin này là đúng nhưng dường như có một số lí do để tin rằng những nghi ngờ này - rất có thể thuộc về tội ác - những hoạt động đang xảy ra ở đây hay xảy ra ở chỗ khác. Elizabeth Moody, một phụ nữ ngớ ngẩn, nhưng tôi không nghĩ là không thật thà, tuyên bố răng cô đã nhận ra ở đây một tội ác trứ danh. Có thể có một kẻ đầu độc đang hoạt động giữa chúng tôi. Bản thân tôi thích giữ tâm trí phóng khoáng, nhưng tôi sẽ còn quan sát. Tôi dự định viết ra đây bất cứ sự kiện nào đến với sự hiểu biết của tôi. Toàn thể sự việc có thể là một ý tưởng hão huyền. Hoặc là luật sư của tôi hoặc cháu trai của tôi Thomas Beresfold, được yêu cầu làm cuộc điều tra đầy đủ.’
- Đó, Ablbert đắc thắng nói - bảo ông rồi mà! Đó là một ĐẦU MỐI!
Danh sách chương